Hành Trình Truyền Giáo Lần Thứ 4 của Phao-lô
(Tác giả: Sinh Viên N.K D, Tp.HCM)
DẪN NHẬP
Ý định
của Đức Chúa Trời là ban sự cứu rỗi đến các dân tộc, Đại mạng lệnh của Chúa
Jesus là ra đi truyền giáo khắp thế gian. Sách Công vụ thuật lại công cuộc
truyền giáo của các sứ đồ, trong đó Phao lô là vị sứ đồ truyền giáo cho dân
ngoại kết quả nhất. Qua các hành trình truyền giáo của ông, Tin lành được
truyền từ châu Á sang châu Âu.
Phao lô được gặp Chúa trên đường
đến Đa mách, qua khải tượng này ông nhận được sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại
bang. Dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, vào khoảng năm 45 – 48 S.C.[1]
Phao lô và Ba na ba thực hiện hành trình truyền giáo lần thứ nhất đến các vùng
Tiểu Á. Trong hành trình truyền giáo lần thứ hai từ năm 50 – 53 S.C [2] và
lần thứ ba vào khoảng năm 54 – 57 S.C, [3] Phao
lô đã đem Tin lành đến Châu Âu, và thành lập nhiều hội thánh tại đây. Nhưng đặc
biệt trong hành trình lần thứ bốn Phao lô đã truyền giáo trong hoàn cảnh bị tù
đày, để làm chứng nhân tại thủ đô Rô ma hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời,
cũng như mong ước lan rộng Phúc âm của ông.
Mặc dù nhiều người không công
nhận đây là hành trình truyền giáo lần thứ bốn của Phao lô. Nhưng chuyến đi Rô
ma trong cảnh tù đày này, Phao lô đã rao giảng Phúc Âm và đem lại kết quả lớn
lao cho Chúa. Qua các phiên tòa, qua việc bị giải tù, Phao lô vẫn tiếp tục
giảng đạo và viết bốn thư tín rất quí báu. Tại đây, chúng ta có thể thấy Phao
lô trung tín thực hiện hành trình truyền giáo lần thứ bốn của mình, thậm chí
qua các phương tiện nhà tù. Hành trình của Phao lô chỉ kết thúc khi ông chịu
chết cho Chúa như chính lời ông nói (II Tim 4: 7).
Trong bài này, người viết sẽ đề
cập đến chuyến vượt biển nguy hiểm đến Rô ma và thời gian bị giam giữ tại ngục
thất của Phao lô. Tại đây, chúng ta có thể thấy dù phải chịu khổ và thiếu tự do
khi bị giam giữ, nhưng Phao lô vẫn tiếp tục rao giảng Phúc âm và viết các thư
tín.
I.
HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO LẦN THỨ BỐN CỦA PHAO LÔ
A. Chuyến hải hành ngục tù đến
Rô ma (năm 60 S.C)
Có thể thấy dù Phao lô là một tù nhân của Đế
quốc Rô ma, tuy nhiên trong các thư tín
Phao lô tự nhận mình là tù nhân của Đấng Christ (Philêmôn 1: 1). Qua các phiên
tòa, Phao lô cũng tận dụng cơ hội để rao giảng cho Chúa và biện minh để cứu
mạng sống ông khỏi những kẻ bắt bớ để có thể thực hiện cuộc đua của chức vụ
mình. Tại Sê sa rê,
theo ý vua Ạc ríp ba có thể tha bổng cho Phao lô khi
chưa kêu nài lên Sê sa.[4]
Nếu như
vậy có thể Phao
lô đã bị người Do thái giết chết do cách đối xử bất chính của Tổng đốc Phết tu
trong Công vụ 25: 9, [5] và
mạng sống ông không được gìn giữ để hoàn thành
cuộc đua. Lời
kêu nài của Phao lô đến Sê sa để hoàn thành ước muốn được đến Rô ma
mở mang chứng cớ
Chúa và “Phao lô ý thức rằng các biến cố
đưa đẩy ông đến Rô ma là
do thánh ý của Chúa.” [6]
Cuộc hành trình truyền giáo lần
thứ bốn của Phao lô được bắt đầu từ đây.[7] Vào
khoảng mùa thu năm 60 S.C.[8] Phao
lô được đi bằng đường thuỷ để đến Rô ma và gặp cơn bão lớn. Trong chuyến vượt
biển giữa cơn bão này, Phao lô thực sự là một chứng nhân cho Chúa. Trong sách
Công vụ 27: 23 – 24 Phao lô nói: “Vì đêm nay Đức Chúa Trời mà tôi
thuộc về và phụng sự đã cho thiên sứ Ngài đứng bên tôi mà phán rằng: ‘Phao lô ơi đừng sợ, ngươi cần phải đứng
trước mặt Sê sa và nầy Đức Chúa Trời ban cho ngươi hết thảy những kẻ đồng thuyền với ngươi nữa… ” Trong câu 23, Phao lô cho thấy rằng trước hết ông thuộc về
Đức Chúa Trời, kế đến ông phụng sự Ngài. Và trong câu 24 thiên sứ bảo đảm với
Phao lô rằng ông sẽ đứng trước mặt Sê sa. Điều này để làm thành lời hứa của
Chúa trong Công vụ 23: 11 và niềm khao khát của vị sứ đồ trong Công vụ 19: 21.
Theo chương 27: 24 Đức Chúa Trời đã ban
cho Phao lô tất cả những người cùng đi thuyền với ông. Điều này cho thấy họ đều
ở dưới ông, nếu Phao lô không hiện diện cùng họ, hết thảy họ sẽ mất mạng. Rồi
kế đến: “Phao lô bèn lấy bánh, cảm tạ Đức
Chúa Trời trước mặt mọi người, đoạn
bẻ ra và ăn trước.” [9] Ở
đây, Phao lô như vị chủ thuyền, trận bão vẫn dữ dội, con thuyền lắc lư, ai nấy
đều sợ hãi. Tuy nhiên, Phao lô bảo họ hãy phấn khởi, bình an và ăn một ít thức
ăn để có sức lực cần thiết. Có 267 người trong thuyền và chúng ta có thể thấy
họ như là thần dân trong vương quốc mà Phao lô cai trị.[10]
Sau đó, dù thuyền bị chìm, nhưng nhờ có sự bảo vệ của Chúa trên Phao lô, nên
mọi người đều được vào bờ an toàn đến một hòn đảo gọi là Man tơ. Phao lô được
cư dân trên đảo đón tiếp cách tử tế. Và tại đây Phao lô đã dùng ân tứ chữa bệnh
để chữa lành cho nhiều dân cư bị bệnh trên đảo.[11]
Trên biển trong bão tố, Chúa
lập vị sứ đồ không chỉ làm chủ nhân cai trị những người đồng thuyền, mà còn là
người đảm bảo mạng sống và yên ủi họ. Sau đó, trên đảo Man tơ trong sự bình an,
Phao lô không chỉ là sự thu hút thần kỳ trong mắt những kẻ mê tín, mà còn là
người chữa lành và đem niềm vui cho dân bản xứ. Nên dân chúng trên đảo rất tôn
trọng và quí mến Phao lô, họ dành cho ông và các bạn đồng hành sự kính trọng
tốt đẹp. Trong suốt chuyến hải hành dài và trắc trở này, Chúa đã giữ gìn vị sứ
đồ trong sự bình an, đồng thời ban năng quyền giúp ông sống vượt trên sự lo
lắng, sợ hãi. Phao lô là vị sứ đồ đầy phẩm giá với tiêu chuẩn cao nhất của các
mỹ đức con người và biểu lộ các thuộc tính thần thượng, giống như đời sống mà
chính Ngài từng sống.[12]
Là một tù nhân nhưng trải suốt chuyến hành trình nhọc nhằn đầy gian khó, Phao
lô đã sống một đời sống đầy uy quyền, khôn ngoan, và cư xử như một vị vua. Do
đó “cơn bão dữ dội cũng không thể ngăn trở mục đích của Đức Chúa Trời,
Ngài vẫn tể trị cuộc hành trình đến Rô ma của tôi tớ Ngài.”[13]
B. Tại ngục thất Rô
ma
Ước muốn được đến Rô ma của Phao lô đã
trở thành hiện thực, những người thuộc Do thái giáo tìm cách ngăn cản ông đến
thế giới ngoại bang nhưng Chúa tể trị đem Phao Lô đến Rô ma. Vào thời xưa thực
hiện cuộc hành trình từ Giê ru sa lem đến Rô ma là một việc lớn, nhưng Chúa đem
Phao lô đi sâu vào thế giới dân ngoại, thậm chí vào thủ đô đế quốc Rô ma. Nhìn
bên ngoài Phao lô là môt tù nhân bị xiềng xích, đang bước vào vùng đất tối tăm
của đế quốc bị Satan chiếm đoạt. Nhưng thật ra với tư cách là đại sứ của Đấng Christ và uy quyền của Ngài, Phao lô đầy
vinh hiển và niềm vui khi đến vùng đất mới để rao giảng Phúc Âm và xây dựng Hội
thánh. Đang bị tôn giáo bắt bớ trong đế quốc Satan, mặc dầu được Chúa khích lệ
trực tiếp (23: 11) và rất can đảm suốt cuộc hải
hành, nhưng Phao lô vẫn vui mừng khi được các anh em nồng nhiệt đón tiếp.
Phao lô được thêm lòng can đảm và không cô đơn vì được gặp các tín hữu tại Rô ma.[14]
Phao lô làm việc hai năm tại Rô ma
rao giảng cách dạn dĩ về Chúa Jesus và vương quốc Đức Chúa Trời mà không
bị ngăn trở gì cả. Phao lô được thuê nhà
riêng có lính canh gác, tự do tiếp đãi bạn hữu, điều khiển công tác truyền
giáo, rao giảng Phúc Âm.[15]
Chúa đã tạo điều kiện cho Phao lô thi hành chức vụ tại đây. Cũng trong thời gian
này, Phao lô viết các thư tín: Cô lô se, Ê phê sô, Phi líp và Phi lê môn. Trong
thư Phi líp và Phi lê môn, Phao lô mong
ước được tự do. Có lẽ hai năm sau ông được tha khỏi tù và đi thăm Ê phê sô và
Ma xê đoan (ITim 1: 3). Tại đó ông viết thư thứ nhất cho Ti mô thê. Có thể sau
đó ông đã đến Tây ban nha, và Cơ rết (Tít 1:5) Ni cô bô li (Tít 3:12). Tại đó,
ông viết thư cho Tít, rồi đến Trô ách và Mi lê (II Tim 4:13, 20).[16]
II. KẾT QUẢ HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO LẦN BỐN
A. Làm
lan rộng Phúc Âm
Các
chương 27 và 28 của sách Công vụ bày tỏ cho chúng ta thấy Phao lô là một chứng
nhân xuất sắc cho Chúa, hoàn toàn sống cho Chúa. Ông bị cầm tù, xiềng xích, bị
những lính gác vây quanh, biển động mạnh và thuyền di chuyển khó khăn. Dầu
chính Phao lô là một tù nhân ở trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, “Nhưng vị sứ đồ đã chỉ huy con tàu theo đúng nghĩa đen và ra những
quyết định và mạng lịnh mang ý nghĩa sống còn cho cả đoàn tàu.”[17] Tại
đảo Man tơ Phao lô đã làm phép lạ và
chữa bệnh, một số học giả Kinh thánh cho rằng có thể Luca cũng giúp đỡ Phao lô
chữa bệnh cho cư dân trên đảo và họ đã trở thành đoàn truyền giáo y khoa đầu
tiên.[18]
Qua chuyến đi, Phúc âm qua Phao lô đã đến Cơ
rết, Man tơ, Syracusơ, Rêghium, Buxôlơ,
Áp-bi-u, Ba quán và Rôma. Tại ngục thất Rô ma “Phao lô rao giảng nước Đức Chúa
Trời và dạy những điều về Chúa Jesus Christ cách dạn dĩ mọi bề, chẳng ai ngăn
cấm chi cả.”[19] Câu
cuối cùng của sách Công vụ cho chúng ta thấy rằng cuộc chinh phục bằng thông
điệp Phúc âm đã chiến thắng. “Chẳng ai
ngăn cấm chi cả ” trong tiếng Hi lạp là một chữ duy nhất có nghĩa: tiếng
reo hò đắc thắng… Ngay từ đầu Lu ca đã cho chúng ta biết sơ đồ sách Công vụ khi
ông viết rằng Chúa Jesus đã truyền lịnh cho các môn đồ Ngài hãy giảng đạo tại
Giê ru sa lem, xứ Giu đê, Samari, cho đến cùng trái đất (Công vụ 1: 8). Hơn ba
mươi năm trước, Phúc âm được giảng tại Giê ru sa lem, bây giờ đã đến tại Rô ma.
Đó là phép lạ của Đức Chúa Trời! Hội thánh ở đầu sách Công vụ vốn chỉ có thể đếm bằng số chục bây giờ không
thể đếm bằng số ngàn, số vạn. Câu chuyện về con người ở Na xa rét bị đóng đinh
trên thập tự giá, đã được loan truyền khắp thế gian với tiến trình chinh phục
lòng người cho đến tận bây giờ, đã được rao giảng ở Rô ma, thủ đô của đế quốc
La mã, không hề bị ai cấm cản, ngăn trở
gì cả. Phúc Âm đã đến tận trung tâm thế giới thời bấy giờ, được truyền bá tự do.[20]
Qua hành trình chức vụ của Phao lô Phúc âm đã đi từ dân Do thái đến dân ngoại
bang và từ Giê ru sa lem đến Rô ma.[21]
Tại đây, Phúc âm được lan rộng và vương
quốc Đức Chúa Trời phát triển tại Rô ma, và công tác truyền giáo của Phao lô đã
thành công cách lạ lùng.
B. Viết các thư tín trong tù
Trước khi kêu nài lên Sê sa, Phao lô mới chỉ
viết 6 thư tín là I & II Tê sa lô ni ca
Ga la ti, Rô ma,
I & II Cô rinh tô. Trong thời gian bị tù Phao lô viết các thư Cô lô se, Ê phê
sô, Phi líp và Phi lê môn. Sau khi ra khỏi tù, ông viết thư I Ti mô thê ,Tít và
có lẽ viết thư Hê bê rơ. Trong khi bị tù lần hai, ông viết tiếp II Ti mô thê.
Nếu không có 8 thư tín này, sự khải thị
thần thượng sẽ thiếu sót và Hội Thánh sẽ chịu thiệt hại biết bao! Lời kêu nài
của Phao lô đã đem lại lợi ích lớn cho mối quan tâm của Chúa.[22] Nếu không kêu nài như vậy Phao lô đã bị giết
chết do âm mưu của những người Do thái (Công vụ 25:1-3, 9). Và ông không thể
đến Rô ma để mở mang chứng cớ Chúa cũng như không thể viết tiếp các thư tín
cuối. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài đã phân rẽ Phao lô khỏi mọi hoàn
cảnh, và những cạm bẫy nguy hiểm, đưa ông đến một nhà giam an toàn, điều này
tạo cho ông một môi trường yên tĩnh và thời gian ở riêng với Chúa suy nghĩ để chuẩn bị tại Sê sa rê và viết thư
tại Rô ma.
Trải qua nhiều hoạn nạn, bắt bớ, đau khổ, thử
thách, và khi nhìn tình hình Hội Thánh, tôn giáo Do thái, chính trị La mã, với
những điều đã nhận nơi Chúa, Phao lô àng
có gánh nặng để viết ra những khải thị mà ông đã thấy. Nếu không được kinh
nghiệm những sự kiện này, hẳn Phao lô không thể viết các thư tín một cách thấu
đáo như vậy. Mặc dù bất tiện do bị giam cầm, Phao lô đã học bài học sâu sắc và
đã viết nhiều lá thư quí giá ở trong tù. Đây là những sách huyền nhiệm, sâu xa
và phong phú nhất của sự khải thị thần thượng. Lợi ích mà Hội thánh Chúa trải
suốt các đời đã nhận được từ các thư tín trong tù này, cần đến cõi đời đời để
đánh giá.[23]
KẾT
LUẬN
Phao lô là nhà truyền giáo anh hùng, nhà sáng
lập Hội thánh từ Á sang Âu và là người
cung ứng lời Chúa đến cuối cuộc đời. Trong hành trình truyền giáo lần thứ bốn,
dù bị sự bắt bớ, ghen ghét của Do thái giáo tối tăm, giả hình nhưng Phao lô đầy
can đảm, trung tín và sáng suốt. Cuối cùng nhờ sự tể trị và chăm sóc của Chúa,
nên Phao lô đã thực hiện hành trình truyền giáo đến Rô ma kết quả tốt đẹp, hoàn thành ý muốn của Đức
Chúa Trời và Đại mạng lệnh như lời Chúa Jesus đã phán (Công vụ 1:8). Suốt hành
trình đầy trắc trở, Phao lô đã sống tôn đại Chúa, làm vinh hiển danh Ngài, ông
là chứng nhân sống động, rao giảng Phúc Âm kết quả bất chấp mọi hoàn cảnh như
lời bày tỏ trong thư Phi líp 1:19 - 21a.
Dù bị giam cầm nhưng trong hành trình truyền
giáo này, Phao lô là chứng nhân kỳ diệu cho Phúc Âm từ Giê ru sa lem đến Rô ma,
ông truyền giảng từ người Do thái cho đến các nhà lãnh đạo Rô ma, kể cả Sê sa
Nê rô. Tại tòa án hay trên thuyền đi giữa bão tố, từ đảo Man tơ… đến giữa thủ
đô Rô ma, Phao lô đều thực sự sống cho Chúa, bày tỏ Chúa, làm vinh hiển danh Ngài
cách quyền năng và can đảm, ứng nghiệm lời Chúa đã phán[24] (Mathiơ
10: 18-19). Phao lô còn là người cung ứng lời Chúa và lẽ thật cho Hội thánh qua
sự rao giảng của ông tại Rô ma và qua các thư tín được viết trong tù. Suốt hai
năm ở tại Rôma, ông “Rao giảng Nước Đức
Chúa Trời và dạy dỗ những điều về
Chúa Jesus cách dạn dĩ mọi bề, chẳng ai ngăn cấm chi cả…”[25] Như
chính lời Phao lô đã nói, dù ông bị trói nhưng Đạo Đức Chúa Trời không hề bị
trói,[26] nhưng
đã được rao giảng, lan rộng khắp nơi để hết thảy dân ngoại bang đều được nghe.
Qua hành trình truyền giáo lần thứ bốn của
Phao lô, người viết thật sự xúc động trước tấm gương rao giảng Tin Lành và đời
sống tận hiến vì Chúa của vị sứ đồ. Phao lô thật sự là một chứng nhân trung tín cho đến
chết, đã để lại gương mẫu truyền giáo tốt đẹp cho các tín hữu trải mọi thời
đại. Dù hành trình truyền giáo của sứ đồ Phaolô đã kết thúc, nhưng công cuộc
rao giảng Phúc Âm vẫn luôn tiến tới và cứ lan rộng cho đến ngày Chúa Jesus tái
lâm như lời xác quyết của Lu ca. Đây là mong ước của người viết cũng như toàn
thể con cái Chúa. Amen!
THƯ MỤC
Barclay,
William. Giải nghĩa Công Vụ Các Sứ Đồ.
Anaheim :
Vietnamese Ministry, Ins, 1999.
Halley, Henry. H.
Thánh Kinh Lược Khảo.Tái bản lần hai.
Sài Gòn: Cơ Quan Xuất
Bản
Tin Lành, 1971.
Lee, Witness. Nghiên Cứu Sự Sống Sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Anaheim :LivingStream
Ministry, 2009.
Macdonald, William. Chú
giải Kinh thánh Tân Ước. Thomas Nelson Publishes: Translated in to
Vietnamese, 2004
Marshall, I. Horward. et al. Thánh Kinh Tân Từ Điển.Ấn bản thứ ba. Sài
Gòn: NXB Phương Đông , 2009.
Wiersbe, Warren. W. Công Vụ
Các Sứ Đồ. Hà Nội: NXB Tôn Giáo,
2005.
________Tìm hiểu Tân Ước. Anaheim :
Viện Thần Học Tin Lành Việt nam, 2006.
[1] Henry H.
Halley. Thánh Kinh Lược Khảo (Sài gòn: Cơ quan xuất bản Tin Lành, tái bản lần
2, 1971), 690.
[2] Henry H. Halley. Sđd, 693.
[3] Henry H. Halley. Sđd, 695.
[4] Warren W. Wiersbe. Giải Nghĩa Công Vụ
(Hà Nội: Nhà Xuất bản Tôn Giáo, 2005), 158.
[5] Horward I.
Marshall et al. Thánh Kinh Tân Từ Điển (Sài Gòn: NXB Phương Đông, 2009), 1431.
[6]
________Tìm Hiểu Tân Ước (Anaheim :
Union University of California, 2006), 212.
[7] Witness
Lee. Nghiên Cứu Công Vụ Các Sứ Đồ (Anaheim : Living Stream
Ministry, 2009), 732.
[8] Henry H.
Halley. Sđd, 701.
[9] Công vụ
các sứ đồ 27: 35.
[10] Witness
Lee. Nghiên Cứu Công Vụ Các Sứ Đồ,
156 - 157.
[11] William
Barclay, Giải Nghĩa Công Vụ Các Sứ Đồ
(Anaheim: Vietnamese Minitry Ins, 1992), 201.
[12] Witness
Lee, Sđd, 158.
[13] Warren
W. Wiersbe, Giải Nghĩa CôngVụ, 196.
[14] William
Barclay, Giải Nghĩa Công Vụ Các Sứ Đồ
, 203.
[15] Công vụ
các sứ đồ 28: 30 – 31.
[16]
Mardonanld William, Chú Giải Kinh Thánh
Tân Ước (Thomas Nelson Publishes: Translated in to Vietnamese, 2004), 736.
[17]
Mardonanld William, Sđd, 732.
[18] William
Barclay, Sđd, 201.
[19] Công vụ
các sứ đồ 28: 31.
[20] William Barclay, Sđd, 205 – 206.
[21] Warren W. Wiersbe, Sđd, 202.
[22] Witness
Lee, Sđd, 690.
[23] Witness
Lee, Sđd, 66.
[24] William
Barclay, Sđd , 186.
[25] Công vụ
các sứ đồ 28: 31.
[26] II
Timôthê 2: 9.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét