Trang Nhà

Phước cho những người trọn vẹn trong đường lối mình,
Đi theo luật pháp của Đức Giê-hô-va.
Thi Thiên 119:1.

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2022

Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai - Phần 2

Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: 

Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai

 

 

Có rất nhiều lời tiên tri trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước đã được ứng nghiệm. Có những lời tiên tri đã ứng nghiệm và kết thúc, ví dụ như trường hợp của Giăng Báp-tít, sự hình phạt trên dân Y-sơ-ra-ên, hay sự hiện đến của Đấng Mê-si. Tuy nhiên, cũng có những lời tiên tri đã ứng nghiệm trong quá khứ, vẫn đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay và sẽ tiếp tục ứng nghiệm trong tương lai. Tiêu biểu đó là trường hợp của đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem là gì? Điều gì xảy ra với đền thờ Giê-ru-sa-lem trong quá khứ, hiện tại và tương lai? Trong giới hạn của bài viết này, tôi mong chia xẻ một vài điều về những ứng nghiệm của các lời tiên tri liên quan đến đền thánh Giê-ru-sa-lem. Bài viết sẽ được chia làm ba phần chính: Phần 1: Vinh Quang và Tủi Nhục, Phần 2: Sự Gớm Ghiếc Lập Ra Trong Nơi Thánh, và Phần 3: Vinh Quang Giê-ra-sa-lem và Sự Giải Cứu của Đức Giê-hô-va.

 

Phần 2: Sự Gớm Ghiếc Lập Ra Trong Nơi Thánh

 

“Sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh” là cụm từ được Chúa Giê-xu đề cập khi Ngài nhắc lại lời tiên tri của Đa-ni-ên. Chữ “shiqqutz” [trong tiếng Hebrew có nghĩa là sự gớm ghiếc, những vật dơ dáy, thần tượng gớm ghiếc] được đề cập đến từ rất sớm khi Đức Chúa Trời cảnh báo cho dân Y-sơ-ra-ên về sự gớm ghiếc và các thần tượng mà dân xứ Ca-na-an đang thờ lạy. Đây là sự gớm ghiếc trước mặt Đức Giê-hô-va: “16 Các ngươi biết sự kiều ngụ của chúng ta trong xứ Ê-díp-tô, và chúng ta đi ngang qua các nước là làm sao. Ðang khi đi ngang địa phận chúng nó, 17 các ngươi đã thấy sự gớm ghiếc của chúng nó, và những tà thần quái gở bằng cây, bằng đá, bằng bạc, và bằng vàng ở nơi chúng nó.”  (Phục Truyền Luật Lệ Ký 29:16-17).

Cũng chính vì sự gớm ghiếc này mà đền thờ Giê-ru-sa-lem thứ nhất bị huỷ diệt. Ê-xê-chi-ên kể lại trong sự hiện thấy của mình về sự gớm ghiếc mà các thầy tế lễ đã đem vào trong đền thánh. 9 Ngài lại phán: Hãy vào xem những sự gian ác đáng gớm mà chúng nó làm ra ở đây10 Vậy ta vào, xem thấy; và nầy, có mọi thứ hình tượng côn trùng và thú vật gớm ghiếc, mọi thần tượng của nhà Y-sơ-ra-ên đã vẽ trên chung quanh tường.” (Ê-xê-chi-ê 8:9-10). Tại chính trong đền thánh Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ đã phạm tội và làm ra ô-uế đến nỗi Đức Giê-hô-va phải lìa xa nơi thánh của Ngài. “Ngài lại phán cùng ta rằng: Hỡi con người, ngươi có thấy những kẻ nầy làm, tức là những sự gớm ghiếc lớn mà nhà Y-sơ-ra-ên đã phạm tại đây, đặng làm cho ta xa nơi thánh ta chăng? Song ngươi sẽ còn thấy sự gớm ghiếc lớn khác nữa.” (Ê-xê-chi-ên 8:6).

Bởi đó, lời tiên tri đề cập đến sự “gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh” ám chỉ đến sự trả thù của Đức Giê-hô-va.[1] Nếu đền thờ là nơi vinh hiển Chúa ngự đã bị dân sự của Chúa làm ra gớm ghiếc và dơ dáy, thì cũng tại chính đền thờ này, Chúa cũng sẽ báo trả cho họ sự gớm ghiếc mà họ đã gây ra. “Sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh” được Ê-xê-chi-ên thuật lại như sau: “Ta sẽ xây mặt khỏi chúng nó, người ta sẽ làm nhơ nhớp nơi cấm của ta; những kẻ trộm cướp sẽ vào đó và làm ô-uế.” (Ê-xê-chi-ên 7:22). Đền thờ sẽ bị huỷ diệt, đốt cháy và trở nên hoang vu. 

Tất cả những điều mô tả trên đều đã ứng nghiệm vào ngày 9 tháng Av năm 586 TC., đền thờ Giê-ru-sa-lem do Sô-lô-môn xây dựng, bị tấn công và thiêu huỷ. Dù đền thờ được xây dựng lại năm 515 TC. và được trùng tu bởi Hê-rốt Đại Đế năm 19 TC., thì đền thánh vẫn tiếp tục là đề tài của các lời tiên tri cảnh báo về sự sụp đổ và trở nên gớm ghiếc trong tương lai.[2]

Trong bài này tôi muốn đề cập đến lời tiên tri của Đa-ni-ên và của Chúa Giê-xu nói về sự sụp đổ và trở nên gớm ghiếc của đền thờ thứ hai; những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đền thờ, những sự kiện xảy ra trong lịch sử và sự hoang tàn cho đến ngày nay.

 

1. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem Thứ Hai Sẽ Trở Nên Gớm Ghiếc

            Sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh là vấn đề trước hết được tiên tri Đa-ni-ên đề cập đến, sau đó Chúa Giê-xu cũng lập lại lời tiên tri này khi nói về đền thờ Giê-ru-sa-lem. Chúng ta cùng nhau xem xét các lời tiên của Đa-ni-ên và của Chúa Giê-xu trong phần sau:

 

a. Lời Tiên Tri của Đa-ni-ên

Lời tiên tri của Đa-ni-ên được ký thuật trong Đa-ni-ên 9:24-27 là lời tiên tri liên quan đến Đấng Mê-si sẽ đến và bị giết. Có rất nhiều chi tiết liên quan đến ngày tháng và dấu hiệu của sự ứng nghiệm theo sự mô tả về bảy mươi tuần lễ. Tuy nhiên trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến khía cạnh tiên tri liên quan đến đền thánh.  Lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem được giải thích theo nhiều học thuyết khác nhau, ví dụ như: quan điểm lịch sử, quan điểm thần học các thời kỳ và quan điểm lai thế học.[3] Trong bài viết này, tôi theo quan điểm lai thế học nhưng có sự ứng nghiệm kép. Quan điểm này sẽ được giải thích ở trong phần sau đây.

Hầu hết các nhà giải kinh đều thừa nhận sự mô tả 70 tuần lễ ám chỉ về tuần thời gian, hay còn có nghĩa là 70 tuần của các năm.[4] Trong đó, câu 25-27 phân chia 70 tuần lễ ra thành ba phần: 7 tuần lễ, 62 tuần lễ và tuần cuối cùng, tuần thứ 70. “Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lệnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem, cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy tuần lễ, và sáu mươi hai tuần lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào, trong kỳ khó khăn.” (Câu 25). Câu này cho thấy có sự ứng nghiệm về việc tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây lại theo chiếu chỉ của vua Si-ru (Cyrus) ký thuật trong Ê-xơ-ra 1:2. 

“Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và sẽ không có chi hết. Có dân của vua hầu đến sẽ huỷ phá thành và nơi thánh; cuối cùng nó sẽ như bị nước lụt ngập, có sự tranh chiến cho đến cuối cùng; những sự hoang vu đã định.” (câu 26)

Lời tiên tri này nói đến thời điểm sau 62 tuần lễ, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi. Nhiều nhà giải kinh cho rằng câu này chỉ về Đấng Mê-si sẽ bị giết. Chữ ‘bị trừ đi’ còn có nghĩa là bị giết đi. Như vậy, trong thời kỳ này có dân của vua hầu đến sẽ huỷ phá thành và nơi thánh. Đây có thể là lời tiên tri về sự sụp đổ đền thờ  Giê-su-ra-lem thứ hai. Điều khó khăn khi giải thích lời tiên tri của Đa-ni-ên nằm trong câu 27. Chữ “Người” không có sự liên kết với các câu nào ở phần trên và chữ “Người” được mô tả nắm giữ vai trò quan trọng liên quan đến đền thờ. Chữ “Người” được giải nghĩa là “Kẻ Chống Đối” hay còn gọi là “Anti-Christ” trong thời kỳ cuối cùng.[5] Vậy, tại đây hàm ý nói đến một đền thờ khác trong tương lai, một đền thờ thứ 3.

“Người sẽ lập giao ước vững bền với người người trong một tuần lễ, và đến giữa tuần ấy, người sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi. Kẻ huỷ phá sẽ đến bởi cánh gớm ghiếc, và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là kỳ đã định.” (câu 27).

Lời tiên tri về đền thánh trong câu 27 có thể liên quan đến thời kỳ tương lai, khi đền thờ thứ ba sẽ được xây dựng. Lúc đó, tại trong đền thánh, kẻ huỷ phá sẽ đến và sự gớm ghiếc sẽ tiếp tục xảy ra theo như lời tiên tri đã báo trước. Như vậy, lời tiên tri của Đa-ni-ên có thể nói đến những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại và sẽ diễn ra trong tương lai, tất cả đều liên quan đến đền thờ Giê-ru-sa-lem thứ hai, và thậm chí là đền thờ thứ ba và sự tàn nát gớm ghiếc xảy ra cho nó.

 

b. Lời Tiên Tri của Chúa Giê-xu

            Lời tiên tri của Chúa Giê-xu liên quan đến đền thờ Giê-ru-sa-lem được ký thuật trong sách Ma-thi-ơ 24, Mác 13 và Luca 21. Trong đó, Ma-thi-ơ ghi chép lại việc Chúa Giê-xu nhắc về lời tiên tri của Đa-ni-ên về đền thờ như sau: “Khi các ngươi sẽ thấy sự gớm ghiếc, tàn nát lập ra trong nơi thánh, mà Đấng tiên tri Đa-ni-ên đã nói (ai đọc phải để ý).” (Ma-thi-ơ 24:15). Có thể nói sự gớm ghiếc, tàn nát lập ra trong nơi thánh mà Đa-ni-ên nói ám chỉ về thời kỳ cuối cùng. Chúa Giê-xu cũng mô tả những điềm xảy ra liên quan đến ngày tận thế. Tuy nhiên, tại đây, lời tiên tri của Chúa Giê-xu cũng nói đến những việc sẽ xảy ra trong một tương lai gần. Đó chính là về sự huỷ diệt đền thờ Giê-ru-sa-lem thứ hai, mà Ngài và các môn đồ đang thấy trước mặt, do Hê-rốt xây dựng: “Ngài phán rằng: Các ngươi có thấy mọi điều đó chăng? Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đây sẽ không còn một hòn đá nào chồng trên một hòn khác mà không bị đổ xuống.” (Mat.24:2). Lời tiên tri về đền thánh được Lu-ca 21:20-24, chép lại cụ thể như sau: 

 

20 Vả, khi các ngươi sẽ thấy quân lính vây thành Giê-ru-sa-lem, hãy biết sự tàn phá thành ấy gần đến. 21 Lúc đó, ai ở trong xứ Giu-đê hãy trốn lên núi; ai ở trong thành phải đi ra ngoài, ai ở ngoài đồng đừng trở vào thành. 22 Vì những ngày đó là ngày báo thù, hầu cho mọi lời đã chép được ứng nghiệm. 23 Trong những ngày ấy, khốn cho đờn bà có thai, và đờn bà cho con bú! Vì sẽ có tại nạn lớn trong xứ, và cơn thạnh nộ nghịch cùng dân nầy. 24 Họ sẽ bị ngã dưới lưỡi gươm, sẽ bị đem đi làm phu tù giữa các dân ngoại, thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp, cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn.”

 

Nếu Ma-thi-ơ chỉ nói về đền thánh bị tàn phá,  thì Lu-ca nói chi tiết hơn về sự tàn phá cả thành Giê-ru-sa-lem, trong đó dân chúng sẽ bị ngã dưới lưỡi gươm, sẽ bị đem đi làm phu tù giữa các dân ngoại, và thành Giê-ru-sa-lem bị dân ngoại giày đạp cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn. So sánh lời tiên tri của Chúa Giê-xu và của Đa-ni-ên có phần rất giống khi nói đến sự hoang tàn của đền thánh. Đa-ni-ên thì viết rằng: “và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là kỳ đã định”, trong khi đó Lu-ca lập lại lời Chúa Giê-xu “thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn.” Cả hai lời tiên tri này đều nói đến sự hoang tàn, hoang vu kéo dài của đền thờ cho đến một thời kỳ đã định. Đây có thể là lời giải thích cho sự hoang tàn của đền thánh cho đến ngày nay.

 

2. Nguyên Nhân Đền Thờ Giê-ru-sa-lem Thứ Hai Bị Huỷ Diệt

            Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự huỷ diệt của đền thờ thứ hai do vua Hê-rốt xây dựng bao gồm những yếu tố tôn giáo và chính trị. Chúng ta có thể nhận thấy bốn lý do chính dẫn đến sự huỷ diệt đền thờ Giê-ru-sa-lem thứ hai vào năm 70 SC. 

 

a) Những Của Lễ Ô-Uế

Chỉ sau một thời gian rất ngắn khi đền thờ thứ hai được xây dựng và trùng tu khoảng năm 515 T.C, các thầy tế lễ và dân Y-sơ-ra-ên trở lại sự gian ác mà tổ phụ họ đã làm. Ma-la-chi thuật lại chi tiết trong sách của mình. “Các ngươi dâng bánh ô-uế trên bàn thờ ta, rồi các ngươi nói rằng: Chúng tôi có làm ô-uế Ngài ở đâu? Ấy là ở điều các ngươi nói rằng: Bàn của Đức Giê-hô-va đáng khinh dễ.” (Malachi 1:7). Ma-la-chi liệt kê tất cả những điều mà thầy tế lễ và dân sự đã làm. Họ dâng con vật mù, què quặt làm của lễ. Họ nhen lửa vô ích nơi bàn thờ của Chúa. Thậm chí còn ăn trộm tiền của Chúa vì đã không đem các phần mười vào kho (Malachi 3:8).

 

b) Hệ Thống Thầy Tế Lễ Giả Hình

Một lý do khác dẫn đến sự huỷ diệt đền thánh là do hệ thống thầy tế lễ trở nên bạo tàn và gian ác. Gil Nativ, một học giả Do-thái viết rằng vào thời điểm đó các của lễ được làm theo tục lệ hơn là theo đạo đức. Đền thờ trở nên ô-uế vì chính các thầy tế lễ giết nhau.[6] Trong câu chuyện Tosefta kể lại một thầy tế lễ đâm một thầy tế lễ khác trong giữa khoảng đền thờ ngay trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội, trước sự chứng kiến của đám đông, là dấu chỉ về sự huỷ diệt sẽ đến.[7] Chính Chúa Giê-xu cũng cáo buộc thầy tế lễ và người Pha-ri-si là những kẻ giả hình, dòng dõi rắn lục. Họ là những kẻ giết người. Họ đã giết Xa-cha-ri là con của Ba-ra-chi ở giữa khoảng đền thờ và bàn thờ trong ngày đại lễ đó. (Mat.23:35). Về sau, khi quân đội La-Mã tràn vào, và cai trị, sự phân hoá của tầng lớp thầy tế lễ càng trở nên kinh khủng hơn. Gil Nativ mô tả: “Họ không thể quên sự suy đồi diễn ra trong khu đền thánh, các thầy tế lễ và gia đình của họ tranh giành các lễ vật, chiếm lấy những miếng thịt từ các của lễ dâng, tranh giành nhau ngay giữa trung tâm tôn giáo. Các thầy Ra-bi không thể quên sự cướp bóc và tranh giành bằng vũ lực của các gia đình tế lễ, để tạo ảnh hưởng trong đền thánh, thậm chí sát hại lẫn nhau giữa các phe Do Thái cánh tả và những người ủng hộ chính quyền Rô-ma.”[8]

 

c) Sự Gớm Ghiếc Lập Ra Trong Nơi Thánh Ngay Trong Thời Chúa Giê-Xu

            Một trong những lý do chính mà đền thờ bị nguyền rủa và sẽ bị đổ nát đó là sự gớm ghiếc mà dân sự lập ra trong nơi thánh. Khi Chúa Giê-xu vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, Ngài “đuổi những kẻ buôn bán ở tại đó, lại lật đổ bàn những người đổi bạc, và ghế những kẻ bán bồ câu. Ngài cấm không cho ai được đem đồ gì đi ngang qua đền thờ.” Chúa Giê-xu lập lại lời của tiên tri Giê-rê-mi nói về đền thờ thứ nhất: “Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân hay sao? Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp.” (Mác 11:17; Giê-rê-mi 7:8-10). Sự kính sợ Đức Chúa Trời không còn nữa, đền thờ chỉ qua là nghi thức tôn giáo, là nơi buôn bán, là hang ổ trộm cướp mà thôi.

 

            d) Yếu Tố Chính Trị

            Khi nói đến sự sụp đổ của đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhiều nhà sử học cho rằng Giê-ru-sa-lem sụp đổ liên quan phần lớn đến yếu tố chính trị. Tuy nhiên, dù vấn đề chính trị như thế nào, thì lý do của sự xung đột cũng đều liên quan đến đền thánh. Lúc bấy giờ, sự cai trị và chuyển quyền lực từ Đại Đế Nê-rô cho Vespasian đã khiến dẫn đến sự thay đổi lớn về sự cầm quyền khu vực Palestine. Đại đế Vespasian trao quyền cai trị khu vực này cho con mình là Titus và Titus quyết định tấn công Giê-ru-sa-lem.[9] Do có sự nổi dậy của các phong trào yêu nước nên dẫn đến sự nổi dậy khắp nơi chống lại chính quyền La Mã. Phong trào mạnh mẽ nhất đó là đảng Zealots và cầm đầu là Yochanan. Sự nổi dậy chống lại nhà cầm quyền La-mã trở nên mạnh mẽ nhất là từ khi đại đế Nê-rô ra lệnh dâng con bò bệnh tật trong đền thờ để đổi lấy hiệp ước hoà bình với chính quyền La-mã, nhưng bị dân Do-thái từ chối.[10] Những xung đột giữa các nhóm Do-thái yêu nước nổi lên khắp nơi. Nhóm Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm và người Sa-đu-sê, liên minh với La-mã luôn xung đột với nhóm Zealots liên minh với dân Ê-đôm miền nam. Cuối cùng, nhóm Zealots đã vào chiếm được khu đền thánh và họ tìm mọi cách để bảo vệ đền thờ khỏi bị phá huỷ bởi quân đội La-mã. [11]

 

3. Sự Chết Của Đấng Mê-si Và Những Điềm Báo Từ Đền Thờ

            Nhắc đến sự sụp đổ của đền thánh Giê-ru-sa-lem thứ hai, chúng ta không thể không nhắc đến lời tiên tri của Đa-ni-ên về sự kiện Đấng Mê-si sẽ bị “trừ đi” và sau đó là sự tàn phá đền thánh do những dân ngoại đến giày đạp. Tuy nhiên, trước khi bị dân ngoại đến phá huỷ thì đền thánh đã trở nên như “hoang vu” không còn ý nghĩa sau sự kiện Đấng Mê-si, tức là Chúa Giê-xu, chịu chết và sống lại. 

Nếu trước đây đền thánh là nơi Đức Giê-hô-va nhậm các của tế lễ và ban sự tha thứ cho dân sự, thì giờ đây Chúa Giê-xu đã làm trọn của tế lễ đó và cất hết tội lỗi của cả thế gian. Vai trò của đền thờ không còn linh nghiệm trong sự tha thứ nữa. Hệ thống tế lễ của đền thánh cũng không còn hiệu nghiệm vì Chúa Giê-xu đã trở thành thầy tế lễ vĩ đại cho dân Y-sơ-ra-ên. 

Do đó, càng có nhiều người tin rằng lời tiên tri của Đa-ni-ên và Chúa Giê-xu đã trở nên ứng nghiệm ngay sau sự kiện Chúa Giê-xu chịu chết và sống lại. Trong lịch sử của Cơ Đốc Giáo và của Do-Thái Giáo đều ký thuật lại những sự kiện mang tính điềm báo về sự huỷ diệt từ chính đền thờ mà ra. [Có thể những sự kiện xảy ra mang tính lịch sử không có ý nghĩa về điềm báo, nhưng trong trường hợp đền thánh Giê-ru-sa-lem thì chúng ta nên xem xét lại.] Dưới đây là một vài trường hợp xảy ra cần được đề cập đến; dù có trường hợp không được nhắc đến trong Kinh Thánh nhưng tài liệu Giê-ru-sa-lem Talmud và Ba-by-lôn Talmud có ghi chép lại.[12]

 

a) Bức Màn Đền Thờ Xé Đôi

            Sự kiện bức màn đền thờ xé đôi đều được các sách tin lành cộng quan ký thuật. Đa số lời giải thích cho rằng Đấng Mê-si đã mở bức màn cho con người đến gần với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sự thắc mắc ở đây không phải là ý nghĩa của việc bức màn bị xé đôi, mà là ai đã làm điều đó? Nếu có những dấu hiệu nào khác xảy ra trong đền thánh thì dấu hiệu đó sẽ được giải thích ra làm sao? Bởi vì còn có nhiều sự việc xảy ra liên quan đến đền thánh trong suốt lịch sử từ năm 30 SC đến năm 70 SC, nên việc bức màn đền thờ bị xé toạc từ trên xuống dưới cũng còn có ý nghĩa khác. Bradley Chance cho rằng: “Sự việc bức màn trong đền thờ bị xé thể hiện sự huỷ diệt của đền thờ. Đó là hình ảnh bị trừng phạt. Không ai khác, chính Đức Chúa Trời là Đấng đem đến sự hình phạt cho đền thờ.”[13] Có thể nói, ngay khi Chúa Giê-xu trút linh hồn trên thập tự giá, bức màn trong đền thờ bị xé làm hai, cũng có nghĩa đền thánh không còn là nơi để con người tìm cầu sự tha thứ và sự thờ phượng phải lẽ qua hệ thống tế lễ của đền thờ. Bức màn bị xé đôi bắt đầu những điềm báo về sự huỷ diệt của đền thờ.

 

b) Sợi Dây Đỏ Điều Không Đổi Màu

            Bắt đầu từ khi Đấng Mê-si bị giết và sống lại, trong suốt 40 năm trước khi đền thờ bị phá huỷ, dân Y-sơ-ra-ên không còn chứng kiến phép lạ trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội nữa. Đó là sự kiện luôn xảy ra hằng năm trong dịp Đại Lễ Chuộc Tội. Khi đó, thầy tế lễ Thượng phẩm giết con sinh tế, dâng lên cho Đức Giê-hô-va trong nơi chí thánh; còn con dê còn lại phải thả nó ra nơi đồng hoang và bị giết đi. Tất cả tội lỗi của dân sự đều chất trên con dê bị đuổi ra nơi đồng hoang. Có một sợi dây đỏ điều cột trên sừng của nó sẽ được cắt về treo trên cửa của đền thờ cho mọi người thấy. Hằng năm, sợi dây màu đỏ điều đó sẽ đổi sang màu trắng để chứng tỏ tội lỗi của dân sự được tha thứ. Như trong Ê-sai chép: Ðức Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên.” (Ê-sai 1:18). Tuy nhiên, trong tài liệu Ba-by-lôn Talmud nói rằng: “trong bốn mươi năm cuối trước khi đền thờ bị phá huỷ, dải dây màu đỏ điều không chuyển qua màu trắng.” (Talmud Mas. Yoma 39b). 

 

            c) Đèn Trong Nơi Thánh Tự Tắt

            Một trong những sự kiện khiến người Do-thái không giải thích được đó là đèn Menorah tự tắt. Đèn Menorah là bộ đèn nằm ở phía tây đền thờ, được cho là phải thắp sáng luôn luôn. Vì vậy, các thầy tế lễ luôn đổ đầy dầu Ô-liu để giữ lửa cháy. Nhưng điều kỳ lạ xảy ra đó là, trong suốt bốn mươi năm, kể từ ngày Đấng Mê-si bị giết và sống lại, thì hằng đêm đèn Menorah luôn bị tắt. Mọi nỗ lực giữ lửa và thêm dầu cũng như không. (Talmud, Soncino, Yoma 39b). Ernet Martin cho rằng: “Sự sáng của Menorah, đại diện cho sự tương giao với Đức Chúa Trời, Thần Linh của Ngài và sự hiện diện của Ngài đã bị dời khỏi đền thờ.”[14]

 

d) Cửa Đền Thờ Hakel Tự Mở

            Điều kỳ lạ tiếp theo xảy ra nơi đền thờ được Giê-ru-sa-lem Talmud ghi lại: “Trong bốn mươi năm trước khi đền thờ bị phá huỷ, chân đèn phía tây bị tắt, sợi dây đỏ điều vẫn là màu đỏ, thăm bắt cho Đức Giê-hô-va cứ ở bên tay trái. Họ sẽ đóng cửa đền thờ vào ban đêm và thức dậy thấy nó mở toang.” ((Jacob Neusner, the Yerushalmi, p.156-157). [The Temple was destroyed in 70 CE]). Bởi đây là những dấu hiệu chỉ về sự huỷ diệt đền thánh nên thầy Ra-bi Rabban Yohanan Ben Zakkai, nói với đền thờ như sau: “Hỡi đền thờ, tại sao ngươi làm chúng ta hãi hùng? Chúng ta biết rằng cuối cùng ngươi sẽ bị huỷ diệt. Vì có lời chép rằng: “ Hỡi Li-ban, khá mở các cửa ngươi, cho lửa thiêu nuốt những cây bá hương ngươi!” (Xa-cha-ri 11:1) (Jerusalem Talmud; Sota 6:3). Cánh cửa Hakel tự động mở ra cho thấy mọi người có thể vào đền thờ, thậm chí vào nơi chí thánh. Sự hiện diện của Đức Giê-hô-va đã rời khỏi đền thờ. Đây không còn là nơi dành cho thầy tế lễ thượng phẩm, nhưng nó dành cho tất cả những ai muốn đến thờ phượng Đức Chúa Trời.[15]

            Thật vậy, ngay sau khi Đấng Mê-si bị trừ đi, thì sự linh nghiệm của đền thờ không còn nữa. Vai trò của hệ thống tế lễ thượng phẩm trong đền thánh cũng không còn giá trị. Dù các thầy tế lễ có tiếp tục dâng của lễ, dân chúng có thể nhóm họp hằng năm trong kỳ Đại Lễ Chuộc Tội, thì đền thánh vẫn im lặng vì sự hiện diện của Đức Chúa Trời không còn ở đó. Đền thánh chờ đợi cho đến ngày bị huỷ phá mà thôi.

 

4. Lời Tiên Tri Ứng Nghiệm Theo Dòng Lịch Sử:

            Lời tiên tri của Đa-ni-ên và của Chúa Giê-xu về đền thờ đã ứng nghiệm dù ở trong những bối cảnh lịch sử khác nhau. Dù lời tiên tri có liên quan đến những điều sẽ xảy ra trong thời kỳ cuối cùng, nhưng những điều đã và đang xảy ra trong hiện tại minh chứng sự ứng nghiệm một phần nào đó của các lời tiên tri.

 

a) Antiochus Và Tế Lễ Gớm Ghiếc Trong Đền Thánh Năm 168 TC

Đền thờ Giê-ru-sa-lem trở thành nơi gớm ghiếc và bị tàn phá bắt đầu ứng nghiệm với lời tiên tri của Đa-ni-ên về một người sẽ đến trong tương lai. 23 Ðến kỳ sau rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội nghịch đã đầy, thì sẽ dấy lên một vua, là người có bộ mặt hung dữ và thấu rõ những lời mầu nhiệm.24 Quyền thế người sẽ lớn thêm, nhưng không phải bởi sức mình. Người làm những sự tàn phá lạ thường; và được thạnh vượng, làm theo ý mình, hủy diệt những kẻ có quyền và dân thành.” (Đa-ni-ên 8:23-25; 11:21-35)

Lời tiên tri của Đa-ni-ên được nhiều học giả Do-thái cho là ứng nghiệm với Antiochus Epiphanes, là tổng chỉ huy của đế quốc Hy-lạp. Antiochus tin rằng mình là thánh thần nên muốn dân chúng tạc tượng và tôn thờ ông.[16] Vì sự nổi loạn tại Giê-ru-sa-lem bởi phe chính thống, lãnh đạo bởi Jason chống lại Menelau, là người được Antiochus lập lên đàn áp dân Y-sơ-ra-ên. Antiochus từ Ai-cập đem quân vào Giê-ru-sa-lem giết hơn 40 ngàn đàn bà, trẻ em và dân chúng; cũng đem khoảng 40 ngàn người khác bán làm nô-lệ. Antiochus vào đền thờ Giê-ru-sa-lem lấy nhiều vàng bạc, những vật dụng thánh, bàn thờ bằng vàng, chân đèn Menorah, bàn để bánh Trần Thiết, màn treo và những vật dát vàng trong đền thờ.[17] Sự đàn áp dân Do-thái trở nên tàn bạo hơn bao giờ hết.

Antiochus ra lệnh chấm dứt các của lễ dâng con sinh tế trong đền thờ mà thay vào đó là bàn thờ thần tượng và dâng lên những con vật không thanh sạch. Không những vậy, Antiochus ra lệnh biến nơi thánh của đền thờ thành đền thờ thần Zeus. Ông ra lệnh cấm giữ lễ Sa-bát và các kỳ lễ Do-thái, không được đọc kinh Tô-ra và đốt nhiều kinh sách. Hễ ai còn giữ kinh sách Tô-ra sẽ bị giết, và ai cho mình là người Do thái cũng sẽ bị giết.[18] Vào năm 168 TC, Antiochus đặt tượng thần Zeus vào nơi chí thánh của đền thờ và làm ô-uế đền thờ bằng việc dâng trên bàn thờ một con heo.[19] Hành động này trở nên ứng nghiệm lời tiên tri của Đa-ni-ên đã nói: “Những quân lính của người mộ sẽ dấy lên, làm ô-uế nơi thánh cùng đồn luỹ, cất của lễ thiêu hằng dâng và lập sự gớm ghiếc, làm ra sự hoang vu.” (Đa-ni-ên 11:31).

 

b) Ngày 9 tháng Av: Ngày Định Mệnh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem

Có ba tuần lễ được biết với tên gọi là Bein Hameitzarim, tức là 21 ngày từ ngày 17 tháng Tamuz (tức tháng 4) cho đến ngày 9 tháng Av (tháng 5), người Do-thái nên tránh tổ chức lễ cưới, tổ chức nhảy múa, nhưng nên kiêng ăn thịt và không uống rượu, trừ ngày Sa-bát. Gil Nativ cho biết rằng trong Mishna, Ta’anit 4:6 có kể về năm điều mà tổ phụ Y-sơ-ra-ên đã thất bại tương ứng khoảng thời gian từ ngày 17 tháng Tamuz đến ngày 9 tháng Av.[20] Trong đó có sự kiện nổi loạn thờ Con Bò Vàng, các thám tử từ chối vào đất hứa, và ngày đền thờ bị huỷ phá. Nhưng về ngày 9 tháng Av, thì tài liệu Mishna viết như sau: “Đền thờ bị huỷ phá lần thứ nhất và lần thứ hai cũng trong ngày này.” Điều này có nghĩa là cả hai đền thờ bị huỷ phá cùng trong ngày 9 tháng Av nhưng ở thế kỷ khác nhau mà thôi. Đền thờ thứ nhất bị huỷ phá vào ngày 9 tháng Av năm 586 TC.; và đền thờ thứ hai bị huỷ phá vào ngày 9 tháng Av năm 70 SC.  Đối với người Do-thái, ngày 9 tháng Av là ngày định mệnh, là ngày của sự hình phạt, là đêm than khóc.

Vì sao ngày 9 tháng Av được chọn là ngày đền thờ bị huỷ phá? Nativ giải thích rằng chính ngày này, chính xác hơn là chính đêm đó, tổ phụ của chúng ta, theo tường thuật của các thám tử, đã từ chối bước vào đất hứa. Chính đêm đó, tổ phụ chúng ta đã lầm bầm và khóc lóc mà hỏi Chúa rằng: “Tại sao Chúa đem chúng con vào vùng đất để bị giết bởi lưỡi gươm?” (Dân số ký 14:1). Thế hệ đó bị hình phạt, và sự hình phạt sẽ tiếp tục lập lại cho các thế hệ trong tương lai nếu họ vẫn tiếp tục không kính sợ Đức Chúa Trời mình.[21]

Scherman kể lại rằng: Titus đem 80,000 lính La-mã đến vây Giê-ru-sa-lem. Trước lễ Vượt Qua năm 70 SC, dân chúng từ khắp nơi đổ về Giê-ru-sa-lem và khu vực đền thờ để dâng lễ, phe nổi dậy lẻn vào thành phố Giê-ru-sa-lem và khu vực đền thánh. Họ đóng tất cả các cửa vào khu vực đền thánh để cố giữ đền thánh khỏi đội quân của Titus. Vì nhằm vào ngày lễ Vượt Qua, nên Titus không tấn công khu vực đền thánh. Hơn nữa, vì Titus được đảng Sa-đu-sê và Pha-ri-si hứa sẽ trao đền thánh trong hoà bình, nên Titus vẫn chờ đợi. Đảng Sa-đu-sê không thể trao đền thánh trong hoà bình, vì phe nổi dậy Zealots và các phe khác đã nắm giữ khu vực đền thờ. Titus quyết định tấn công vào khu vực đền thánh nơi đang có rất nhiều người dân và phe nổi dậy ở trong.[22] Vì không thể tấn công bằng vũ lực, Titus quyết định phong toả khu vực và cắt nguồn lương thực. Dân chúng trong thành và quân lính chết vì đói. Josephus tường thuật lại: “Trên mái của tường thành đầy phụ nữ và trẻ em chết vì đói, và thay của những người già chất đống trên đường phố. Các thanh niên trai trẻ lang thang vì đói nơi phố chợ cho đến khi họ ngã xuống. Không có ai khóc cho người chết, vì sự đói kém quá kinh khiếp. Những người ngã xuống vì đói, đều hướng mắt về đền thánh và những chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.” (The Jewish Wars, 5:10). Vì vậy, vào ngày 9 tháng Av năm 70 SC., thành phố và đền thờ bị thiêu đốt, quân lính La-mã giết rất nhiều thầy tế lễ và dân chúng. Trong sự tức giận, quân lính La-mã đã giựt sập những bức tường đá của đền thờ. Một số lượng lớn bờ tường bên ngoài có liên kết với đền thờ đều bị giựt sập xuống, chỉ còn một phần bức tường phía Tây, còn lại cho đến ngày nay.[23]

 

c) Sự Xây Dựng Đền Hồi Giáo và The Doom of Rock 

Sau khi Mohammed qua đời năm 632 SC, Abu Kakr là người kế vị làm Caliphe, còn gọi là giáo chủ của thế giới hồi giáo. Ngay sau đó có sự tranh chiến nội bộ trong dòng dõi Mohammed nên đã chia ra thành hai dòng hồi giáo Sunni và hồi giáo Shiite. Cả hai dòng này tranh chiến cho đến ngày nay. Từ những năm 633-643, Hồi giáo xâm chiếm và cai trị Syria, Iraq, Ai-cập, và Ba-tư. Vào năm 638, người hồi giáo xâm chiếm Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem, nơi chính quyền Cơ đốc giáo đang cai trị. Sử gia Steve Runciman chép lại cuộc xâm chiếm như sau: 

Vào một ngày trong tháng 2 năm 638, Caliph Omar tiến vào Giê-ru-sa-lem, cưỡi trên một con lạc đà màu trắng. Ông ta mặc một chiếc áo choàng cũ kỹ dơ nhớp, và theo sau là một đoàn quân hung bạo nhưng kỷ luật sắt. Bên cạnh ông ta là tổ phụ Sophronius, là chưởng lý của thành phố đầu hàng. Omar đi thẳng đến khu vực đền thánh của So-lô-môn, nơi bạn của mình Mohammed được cất lên trời. Đừng nhìn ông Omar, tổ phụ Sophronius nhớ lại lời của Đấng Christ, và đọc thầm trong nước mắt: “Khi các ngươi thấy sự gớm ghiếc tàn nát lập ra trong nơi thánh, mà Đấng tiên tri Đa-ni-ên đã nói.”[24]

Theo truyền thống kể lại, chính Omar là người muốn xây dựng đền hồi giáo trên nền của đền thờ của Đa-vít, dù có nhiều lời đồn đoán cho rằng đây là nơi Mohammed về trời. Vì thấy nơi đổ nát dơ dáy vì rác, nên Omar đã tự mình dọn rác vì tôn trọng nơi thiêng liêng mà Cơ đốc nhân lúc bấy giờ bỏ mặc. Năm 691 Umayyaed Caliph cho xây một nhà vòm trên nơi đổ nát mà Omar đã dọn và đặt tên là “Đền của Omar” sau này mang tên là “the Dome of the Rock.” Để áp đặt sự cai trị và thế lực mình, Caliph Omar cho xây dựng một đền thờ trên nền nhà thờ của Cơ đốc giáo lúc bấy giờ, lấy tên là Al-aqsa, cũng trong khu vực đền thánh. Đền thờ này trở thành một trong ba địa danh thiêng liêng nhất của Hồi giáo, nhưng “The Dome of the Rock” là vương miện của cả khu vực núi thánh.[25]

Cả khu vực đền thánh trước đây đẹp đẽ bao nhiêu đã bị đổ xuống trở thành đống hoang tàn; nay được dọn dẹp và lập lại với sự gớm ghiếc của một tôn giáo, một vị thần khác và một dân tộc khác là kẻ thù, và là kẻ khinh bỉ danh Đức Giê-hô-va. Điều này xảy ra để ứng nghiệm những gì Đức Giê-hô-va có phán cùng dân sự của Ngài khi đền thờ Sô-lô-môn được khánh thành trong 1 Các Vua 9:6-9:

 “6 Nhưng nếu ngươi và con cháu các ngươi xây bỏ ta, không giữ các điều răn và luật lệ ta đã truyền cho các ngươi, đi hầu việc những thần khác và thờ lạy chúng nó, 7 thì ta sẽ truất Y-sơ-ra-ên khỏi đất ta đã ban cho chúng nó, trừ bỏ khỏi trước mắt ta cái đền này mà ta đã vì danh ta biệt riêng ra thánh, và Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên lời tục ngữ và trò cười giữa muôn dân.8 Còn đền này, dầu cao dường nào, ai đi ngang qua gần nó cũng lấy làm lạ lùng, chê bai, mà rằng: Cớ sao Ðức Giê-hô-va có làm cho xứ này và đền này như vậy? 9 Người ta sẽ đáp rằng: Ấy vì chúng nó đã lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng nó, là Ðấng đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô; họ theo các thần khác, thờ lạy các thần ấy, và hầu việc chúng nó; vì cớ đó, Ðức Giê-hô-va đã giáng trên họ các tai họa này.”

 

            Lời tiên tri của Chúa Giê-xu được Lu-ca 21:24, viết lại rằng: “Thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp, cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn.” Cảm nhận của một người Do-thái tên là Nahmanides viết cho con trai mình trong thế kỷ 13 được ký thuật như sau: 

“Cha sẽ nói gì về vùng đất này...nơi này thánh khiết bao nhiêu, nay trở nên hoang tàn bấy nhiêu. Giê-ru-sa-lem là nơi hoang tàn nhất ...có khoảng hơn 2000 cư dân tại đây..nhưng không có một người Do-thái...Có nhiều người đến Giê-ru-sa-lem, đàn ông, đàn bà từ Đa-mách, từ Aleppo và mọi vùng trên thế giới để xem đền thờ và khóc vì nó. Nguyện Đấng xét đoán chúng ta sẽ thấy sự đổ nát của Giê-ru-sa-lem và ban cho chúng ta cơ hội xây dựng và phục hồi..”[26]

 

Thật vậy, Giê-ru-sa-lem, nơi khu vực đền thánh, ngày nay là đền thờ Hồi giáo Al-Aqsa và the Dome of the Rock, là nơi người Hồi giáo khắp nơi trên thế giới đổ về hành hương, cầu nguyện. Người không theo đạo Hồi không được phép vào bên trong “The Dome of the Rock”.

 

Kết luận

Lời tiên tri của Đa-ni-ên về sự tàn nát gớm ghiếc và hoang vu lập ra trong nơi thánh đã ứng nghiệm. Sự gớm ghiếc chưa từng xảy ra trong nơi thiêng liêng nhất nay đã trở thành sự thật với hành động của Antiochus. Lời tiên tri ấy tiếp tục được ứng nghiệm qua sự tuyên bố của Chúa Giê-xu về đền thánh qua đó không còn một hòn đá nào chồng trên một hòn khác mà không bị đổ xuống, qua sự tàn bạo của Titus. Rồi đến sự ứng nghiệm của thời kỳ Hồi giáo, xây dựng sự gớm ghiếc trên nền của đền thờ Giê-ru-sa-lem. “Giê-ru-sa-lem bị dân ngoại giày đạp” thậm chí ngay trên nền của đền thờ Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay. Lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem đã ứng nghiệm trong quá khứ, và hiện nay vẫn đang ứng nghiệm đến sững sờ. 

Trong phần sau, Phần 3: Vinh Quang Giê-ra-sa-lem và Sự Giải Cứu của Đức Giê-hô-va.

Tôi sẽ mô tả lời tiên tri về đền thờ trong tương lai. Điều gì sẽ xảy ra khi nhiều lời đồn đoán về một đền thờ thứ 3 sẽ được dựng nên? Liệu đây sẽ là đền thờ đến từ Đức Chúa Trời, hay là hành động của sự chống nghịch đến từ con người. Đền thờ này dù được dựng nên, các của tế lễ có thể sẽ lập lại, nhưng một lần nữa, sự gớm ghiếc được bày tỏ bởi Đa-ni-ên và Chúa Giê-xu có thể sẽ còn gớm ghiếc hơn những gì đã xảy ra trong hiện tại. Đó là thời kỳ cuối cùng, khi anti-Christ hiện đến ngồi trên ngôi, tự xưng mình là Đức Chúa Trời, như Phao-lô viết 3Vì phải có sự bỏ đạo đến trước, và có người tội ác, con của sự hư mất hiện ra, 4 tức là kẻ đối địch, tôn mình lên trên mọi sự mà người ta xưng là Ðức Chúa Trời hoặc người ta thờ lạy, rất đỗi ngồi trong đền Ðức Chúa Trời, chính mình tự xưng là Ðức Chúa Trời.” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 23-4). Tuy nhiên, dù điều gì xảy ra, thì sự nhân từ của Đức Giê-hô-va vẫn hằng còn đến đời đời cho những kẻ yêu mến Ngài. Thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới sẽ từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống như Giăng chép trong Khải Huyền 21, hoặc là Ê-xê-chi-ên 40-48, nói về đền thờ mới, là nơi đầy dẫy sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va.

 

 

 

 

Hậu Chú



[1] Cũng xem trong Lê-vi-ký 26:25; Giê-rê-mi 5:9; 29; 9:9.

[2] Randall Price, The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future (Eugene: Harvest House Publishers, 2005), 61 và 244.

[3] Tham khảo thêm về lịch sử giải nghĩa lời tiên tri của Đa-ni-ên trong các tài liệu sau: Michael Kalafian, The Prophecy of the Seventy Weeks of the Book of DanielA Critical Review of the Prophecy as Viewed by Three Major Theological Interpretations and the Impact of the Book of Daniel on Christology (New York: University Press of America, 1991). Richard S. Hess, “The Seventy Sevens of Daniel 9: A Timetable for the Future?” in Bulletin for Biblical Research 21.3 (2011): 315-330. Randall Price, The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future (Eugene: Harvest House Publishers, 2005).

[4] Randal, The Temple and Bible Prophecy, 250.

[5] Ibid., 252.

[6] Gil Nativ, “Why Was Jerusalem Destroyed?” in European Judaism, Vol. 38., No. 1, (Spring: 2005), 129-130.

[7] Ibid., 130.

[8] Ibid., 130.

[9] Rabbis Nosson Scherman, The History of the Jewish Peopl: The Second Temple Era (Jerusalem: Mesorah Publication, 1982), 186-194.

[10] Nativ, 128.

[11] Scherman, 179-185.

[12] (Talmud (/ tɑ ː lmʊd, - məd, ˈtæl-/;, tiếng Do Tháiתַּלְמוּד Talmud nghĩa là "giảng dạy, học tập", từ một gốc LMD " giảng dạy, nghiên cứu ") là một văn bản trung tâm của giáo sĩ Do Thái giáo (rabbinic). Nó cũng được gọi theo cách truyền thống là Shas (ש"ס), một từ viết tắt tiếng Do Thái của shisha sedarim, "sáu thứ bậc" của Luật Miệng của Do Thái giáo. Talmud có hai bộ phận: Mishnah (tiếng Do Thái:. משנה, năm 200 sau công nguyên), bản tóm đầu tiên bằng văn bản của Luật Miệng của Do Thái giáo, và Gemara (năm 500 sau công nguyên), giải thích cho tác phẩm Mishnah và liên quan tới các bài viết Tannaitic mà thường xuyên đề cập tới các đối tượng khác và được giải nghĩa rộng rãi trong Kinh Thánh Do Thái. Thuật ngữ Talmud và Gemara thường được sử dụng thay thế cho nhau, mặc dù không được chính xác cho lắm. Toàn bộ kinh Talmud bao gồm 63 bài luận, trong bản in tiêu chuẩn dài hơn 6.200 trang. Nó được viết bằng tiếng Tannaitic Do Thái và tiếng Aram (tiếng Sy-ri). Talmud bao gồm những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ Do Thái trong nhiều chủ đề, bao gồm cả pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Talmud là cơ sở cho tất cả các bộ luật của luật giáo đoàn Do Thái giáo và được nhiều trích dẫn trong các tài liệu giáo đoàn khác.)

[13] J. Bradley Chance, “The Cursing of the Temple and the Tearing of the Veil in the Gosple of Mark,” in Biblical Interpretation 15 (2007): 268-291, here p. 285.

[14] Ernet Martin, The Significance of the Year CE 30, Research Update, Aprile 1994, p. 4.

[15] N. Federooff and T. Peterson, Talmudic Evidence for the Messiah at 30 EC at www.windowview.org at (http://www.windowview.org/hmny/pgs/talmuds.30ce.html)

[16] Scherman, 61.

[17] Ibid., 63.

[18] Ibid., 64.

[19] Randal, The Temple and Bible Prophecy, 75.

[20] Nativ, 126.

[21] Ibid., 127-128.

[22] Scherman, 188.

[23] Ronny Reich, The Stones Cry Out: What Archaeology Reveals About the Truth of the Bible (Eugene: Harvest House Publishers, 1997), 194-196.

[24] Steve Runciman, A History of the Crusades: The First Crusade (Cambridge: Cambridge University Press, 1951), 3.

[25] Randal, The Temple and Bible Prophecy, 170.

24 Eliyahu Tal, Whose Jerusalem? (Tel Aviv: The International Forum for a United Jerusalem, 1994), p.76.

Tài Liệu Tham Khảo

Cahn, Jonathan. The Mystery of the Shemitah. Lake Mary: Frontline, 2014.

Chance, J. Bradley. “The Cursing of the Temple and the Tearing of the Veil in the Gosple of 

Mark,” in Biblical Interpretation 15 (2007): 268-291.

Federooff, N.  and T. Peterson, Talmudic Evidence for the Messiah at 30 EC at 

www.windowview.org at (http://www.windowview.org/hmny/pgs/talmuds.30ce.html).

Foods Harold D., “Jerusalem in Biblical Prophecy,” Dictionary of Premillenial Theology, ed. Mal 

Couch. Grand Rapids: Kregel Publication, 1996.

Hess, Richard S.  “The Seventy Sevens of Daniel 9: A Timetable for the Future?” in Bulletin for 

Biblical Research 21.3 (2011): 315-330. 

Kalafian, Michael. The Prophecy of the Seventy Weeks of the Book of DanielA Critical Review of 

the Prophecy as Viewed by Three Major Theological Interpretations and the Impact of 

the Book of Daniel on Christology. New York: University Press of America, 1991.

Martin, Ernet. The Significance of the Year CE 30, Research Update, Aprile 1994, p. 4.

Mitchell, Chris. Dateline Jerusalem: An Eyewitness Account of Prophecies Unfolding in the 

Middle East. Nashville: Thomas Nelson, 2013.

Murphy, James trong George Bush, Notes, Criticals and Practicals in the book of Exodus. Boston: 

Henry A. Young and Co., 1948.

Nativ, Gil “Why Was Jerusalem Destroyed?” in European Judaism, Vol. 38., No. 1, (Spring: 2005), 

129-130.

Price, Randall. The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future. 

Eugene: Harvest House Publishers, 2005.

Price, Randall. Jerusalem in Prophecy: God’s Stage for the Final Drama. Oregon: Harvest House 

Publishers, 1998.

Reich, Ronny. The Stones Cry Out: What Archaeology Reveals About the Truth of the Bible

Eugene: Harvest House Publishers, 1997.

Runciman, Steve. A History of the Crusades: The First Crusade. Cambridge: Cambridge University 

Press, 1951.

Scherman, Rabbis Nosson. The History of the Jewish Peopl: The Second Temple Era. Jerusalem: 

Mesorah Publication, 1982.

Tal, Eliyahu Whose Jerusalem? (Tel Aviv: The International Forum for a United Jerusalem, 1994.

VanGemeren, Willem A. Interpreting Prophetic Word: An Introduction to the Prophetic 

Literature of the Old Trestament. Grand Rapids: Zondervan Publishing House, 1990.

 

Tác giả: Mục sư Phước Lê, 2018

 

Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai

Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai

 

 

Có rất nhiều lời tiên tri trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước đã được ứng nghiệm. Có những lời tiên tri đã ứng nghiệm và kết thúc, ví dụ như trường hợp của Giăng Báp-tít, sự hình phạt trên dân Y-sơ-ra-ên, hay sự hiện đến của Đấng Mê-si. Tuy nhiên, cũng có những lời tiên tri đã ứng nghiệm trong quá khứ, vẫn đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay và sẽ tiếp tục ứng nghiệm trong tương lai. Tiêu biểu đó là trường hợp của đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem là gì? Điều gì xảy ra với đền thờ Giê-ru-sa-lem trong quá khứ, hiện tại và tương lai? Trong giới hạn của bài viết này, tôi mong chia xẻ một vài điều về những ứng nghiệm của các lời tiên tri liên quan đến đền thánh Giê-ru-sa-lem. Bài viết sẽ được chia làm ba phần chính: Phần 1: Vinh Quang và Tủi Nhục, Phần 2: Sự Gớm Ghiếc Lập Ra Trong Nơi Thánh, và Phần 3: Vinh Quang Giê-ra-sa-lem và Sự Giải Cứu của Đức Giê-hô-va.

 

Phần 1: Vinh Quang và Tủi Nhục

 

Giê-ru-sa-lem là địa danh được nhắc đến hơn tám trăm lần trong Kinh Thánh, cùng với rất nhiều lần khác nữa xuyên suốt cả Kinh Thánh qua các tên gọi khác nhau.[1] Giê-ru-sa-lem xưa vốn được gọi là Sa-lem, là một thành phố của người Ca-na-an cổ xưa. Chữ Sa-lem là danh xưng theo tiếng người Ca-na-an dành cho vị thần của Ba-by-lôn là Shalmanu, tức là thần chạng vạng (twilight).[2] Khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm xứ Ca-na-an và định cư tại đó thì Giê-ru-sa-lem trở thành một thành phố của họ. 

Trong thời vua Đa-vít, dân Y-sơ-ra-ên phát triển mạnh mẽ và trở nên thịnh vượng. Vì lầm lỗi khi tu bộ dân số của Đa-vít mà Đức Chúa Trời đã hình phạt dân Y-sơ-ra-ên,[3] sự kiện này đã khiến cho hơn bảy ngàn người ngã chết. 

Đa-vít lập một bàn thờ tại đây và dâng của lễ thiêu, của lễ bình an và cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Sử Ký chép: “Ngài đáp lời người bằng lửa từ trời giáng xuống trên bàn thờ về của lễ thiêu.” (1 Sử Ký 21:26).Từ lúc đó, Đa-vít thấy Đức Giê-hô-va đã nhậm lời mình tại trong sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít, thì người bèn dâng của lễ tại đó (21:28). Cũng chính tại nơi nầy, Đa-vít truyền lệnh xây dựng đền thờ cho Đức Giê-hô-va. Vua Sa-lô-môn, con trai vua Đa-vít đã khởi cất đền Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít (2 Sử Ký 3:1). 

 

1. Vinh Quang Giê-ru-la-lem

Nói đến Giê-ru-sa-lem, người ta sẽ nghĩ đến một vùng đất thánh, nơi có đền thánh mà vua Sa-lô-môn đã lập lên. Đền thờ mà vua Sa-lô-môn xây dựng rất vinh quang vì sự tráng lệ đẹp đẽ bởi những chất liệu như vàng ròng, gỗ hương, vải gai mịn, các loại chỉ điều đầy màu sắc. Đền thờ được mô tả rất “nguy nga lạ kỳ” (2 Sử Ký 2:9), bởi có hàng chục ngàn người tham gia từ việc đẽo đá, gỗ, chế tác các loại vàng, bạc, đồng, và sắt. 

Vinh quang của Giê-ru-sa-lem còn được biết đến là một nơi thánh và vinh hiển vì có sự hiện diện của Đức Giê-hô-va. Chính Ngài đã hiện ra cùng Sa-lô-môn và thề hứa rằng Ngài đã chọn nơi này và sẽ ngự tại đây đời đời. “Bấy giờ, mắt ta sẽ đoái xem, lỗ tai ta sẽ lắng nghe lời nào cầu nguyện tại nơi nầy; vì bây giờ, ta đã chọn và khiến cho cái nhà nầy ra thánh, hầu cho danh ta ngự đó đời đời; mắt cùng lòng ta sẽ ở đó luôn luôn.” (2 Sử Ký 7:16).

Sự vinh quang của Giê-ru-sa-lem càng thêm lên khi Đức Giê-hô-va ngự xuống trong ngày lễ cung hiến đền thờ. 1 Các Vua 8:10-11, chép như sau: “Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va, đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va.” 

Từ đó,đền thờ Giê-ru-sa-lem trở thành trung tâm của sự thờ phượng, vì đây là nơi mà Đức Giê-hô-va yêu mến. Thi Thiên 87: 1-2 chép rằng: “Cái nền Ngài đã đặt trên các núi thánh. Đức Giê-hô-va chuộng các cửa Si-ôn hơn những nơi ở của Gia-cốp.” Tất cả mọi người trong dân chúng đều đến Giê-ru-sa-lem để cầu nguyện với Đức Giê-hô-va. Những ai ở xa, cũng đều hướng về Giê-ru-sa-lem để cầu khẩn Đức Chúa Trời. Giê-ru-sa-lem trở thành đề tài của biết bao nhiêu áng văn thơ chúc tụng. Thi Thiên 125 viết rằng: “Các núi vây quanh Giê-ru-sa-lem thể nào, Đức Giê-hô-va vây phủ dân sự Ngài thể ấy, từ rày cho đến đời đời.”và Thi Thiên 122:8 “Vì cớ anh em và bầu bạn ta, Ta nói rằng: Nguyện sự hoà bình ở trong ngươi! Nhân vì nhà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời chúng ta, Ta sẽ cầu phước cho ngươi.”

            Sự vinh quang chói sáng của Giê-ru-sa-lem không phải là điều con người có thể làm được. Nếu Đức Giê-hô-va không hiện diện và ban phước thì đền thánh cũng chỉ như bao nhiêu đền đài tôn giáo khác. Chính vì lẽ đó, Giê-ru-sa-lem phải tuân theo sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va một cách nghiêm ngặt.

 

2. Các Lời Tiên Tri về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem

            Đi cùng với lời hứa về sự hiện diện của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, chính Ngài cũng đã thề với Sa-lô-môn về sự huỷ diệt nếu dân sự không hết lòng kính sợ và đi theo đường lối của Ngài. “Nhưng nếu các ngươi và con cháu các ngươi xây bỏ ta, không giữ các điều răn và luật lệ ta đã truyền cho các ngươi, đi hầu việc những thần khác và thờ lạy chúng nó, thì ta sẽ truất Y-sơ-ra-ên khỏi đất ta đã ban cho chúng nó, trừ bỏ khỏi trước mặt ta cái đền nầy, mà ta đã vì danh ta biệt riêng ra thánh, và Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên lời tục ngữ và trò cười giữa muôn dân. Còn đền nầy, dầu cao dường nào, ai đi ngang qua gần nó cũng lấy làm lạ lùng, chê bai, mà rằng: Cớ sao Đức Giê-hô-va có làm cho xứ nầy và đền nầy như vậy?” (1 Các Vua 9:6-9).

            Không phải tự nhiên mà đền thờ Giê-ru-sa-lem là trung tâm của nhiều sự thu hút và quan tâm của hầu hết các dân tộc xung quanh vùng Cổ Cận Đông khi các lời tiên tri cảnh báo về sự sụp đổ của đền thờ ngày càng được biết đến. Tất cả những cảnh báo về sự sụp đổ của đền thờ Giê-ru-sa-lem cũng như dân cư thành ấy bị huỷ diệt đều liên quan đến những tội lỗi mà chính họ đã phạm nghịch cùng Đức Giê-hô-va. Sau khi vương quốc phía bắc là Y-sơ-ra-ên có thủ đô là Sa-ma-ri bị tàn phá và huỷ diệt năm 722 BC., thì mọi con mắt đều hướng về Giê-ru-sa-lem. Nếu dân Y-sơ-ra-ên ở miền nam Giu-đa không kính sợ Đức Giê-hô-va thì sự hình phạt chắc chắn sẽ đến.

            Các lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem trong Kinh Thánh có thể được kể đến như sau:

 

            Tiên tri A-mốt từ những năm 760 BC., tiên tri về sự hình phạt của Đức Giê-hô-va trên vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên trong một phần rất nhỏ trong lời tiên tri, A-mốt đã cho biết rằng lửa sẽ thiêu đốt Giê-ru-sa-lem. “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Bởi cớ tội ác của Giu-đa đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt khỏi nó; vì chúng nó đã bỏ luật pháp của Đức Giê-hô-va và không vâng theo lệ luật Ngài, những sự giả dối mà tổ phụ chúng nó đã theo, làm lầm lạc chúng nó. Ta sẽ sai lửa đến trên Giu-đa, nó sẽ thiêu nuốt những đền đài của Giê-ru-sa-lem.” (A-mốt 2:4-5).

Tiên tri Ê-sai từ những năm 740 BC., tiên tri về sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và thành trì của Si-ôn.[4]Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại quốc đến huỷ diệt. Đó là sự hình phạt đến từ Đức Giê-hô-va. “Xứ các ngươi là nơi hoang vu, thành các ngươi bị lửa thiêu huỷ; dân ngoại nuốt đất đai các ngươi trước mặt các ngươi, hoang vu như bị dân ngoại phá tán. Con cái Si-ôn bị bỏ lại như lều vườn nho, như chòi ruộng dưa, như thành bị vây. Ví bằng Đức Giê-hô-va vạn quân chẳng để chúng ta còn sót lại chút đỉnh, thì chúng ta sẽ giống thành Sô-đôm và như thành Gô-mô-rơ vậy!” (Ê-sai 1:7-9).

            Tiên tri Mi-chê từ những năm 733-701 BC, cũng nói tiên tri về sự huỷ diệt của Giê-ru-sa-lem và sự tàn phá thành trong tương lai, nơi mà đền thờ và cung điện sẽ trở nên như đống đổ nát và hoang tàn.[5]“Các quan trưởng xét đoán vì của hối lộ, các thầy tế lễ dạy dỗ vì tiền công, còn các kẻ tiên tri nói tiên tri vì bạc; rồi chúng nó nương cậy Đức Giê-hô-va mà rằng: Đức Giê-hô-va há chẳng ở giữa chúng ta sao? Tai vạ sẽ chẳng đến trên chúng ta! Vậy nên, vì cớ các ngươi, Si-ôn sẽ bị cày như ruộng; Giê-ru-sa-lem sẽ trở nên đống đổ nát, và núi của nhà sẽ trở nên như nơi cao trong rừng!” (Mi-chê 3:12).

            Tiên tri Ha-ba-cúc từ năm 640 BC., là tiên tri của Đức Chúa Trời mang sứ điệp cho dân Giu-đa. Ông nhìn thấy dân Canh-đê (tức Ba-by-lôn) đến huỷ diệt dân Chúa. Ông hỏi Chúa vì sao để một dân tộc thậm chí gian ác hơn, đến huỷ diệt dân sự của Ngài.[6] Đây là một trong những lời tiên tri nêu đích danh kẻ thù tức là dân Ba-by-lôn. Lúc bấy giờ, Ba-by-lôn mới vừa trở nên hùng mạnh sau khi đánh bại Asyria và Ai-cập năm 605 B.C[7]

            Tiên tri Sô-phô-ni từ năm 622 BC, cũng nói tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem vì những thầy tế lễ đã phạm luật pháp của Đức Giê-hô-va.[8] “Ta sẽ dang tay ta trên Giu-đa và trên hết thảy dân cư Giê-ru-sa-lem; sẽ trừ diệt phần sót lại của Ba-anh, các tên của thầy cả và thầy tế lễ nó khỏi nơi nầy. Ta sẽ diệt những kẻ lạy cơ binh trên trời nơi nóc nhà; và những kẻ thờ lạy, những kẻ thề với Đức Giê-hô-va và cũng thề bởi vua mình; cùng với những kẻ xây bỏ không theo Đức Giê-hô-va, và những kẻ không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, không cầu hỏi Ngài.” (Sô-phô-ni 1:5-6).

            Tiên tri Giê-rê-mi từ năm 627 BC, đã nói tiên tri rất chi tiết về sự sụp đổ của đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ông chính là tiên tri đã nói trước về sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và cũng là người chứng kiến lần đầu tiên đế quốc Ba-by-lôn tấn công Giê-ru-sa-lem. 

Giê-rê-mi chép về tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên liên quan đến trộm cướp, giết người, phạm tội tà dâm, thề dối, dâng hương cho Ba-anh, đi theo thần khác, là thần họ không hề biết. Rồi đến trong nhà Chúa và thờ phượng Ngài. Giê-rê-mi cho rằng: “họ phạm mọi sự gớm ghiếc ấy.” (Giê-rê-mi 7:9-10); và sự hình phạt sẽ đến như sau: “Ta sẽ khóc lóc thở than về các núi, sẽ xướng bài ca sầu não về nội cỏ nơi đồng vắng, vì thảy đều bị đốt cháy, đến nỗi chẳng con ai đi qua đó nữa. Tại đó chẳng còn nghe tiếng bầy súc vật, chim trời và loài thú đều trốn đi cả rồi. Ta sẽ khiến Giê-ru-sa-lem thành ra đống đổ nát, nơi ở của chó rừng; sẽ làm cho các thành của Giu-đa ra hoang vu không người ở.” (Giê-rê-mi 9:10-11)

            Tiên tri Ê-xê-chi-ên là vị tiên tri được dấy lên trong những ngày cuối cùng của vương quốc Giu-đa. Ông được sinh ra trong gia đình thầy tế lễ và bị lưu đày qua Ba-by-lôn. Ê-xê-chi-ên bắt đầu chức vụ từ năm 593 TC. đến 571 TC. Lời tiên của Ê-xê-chi-ên gắn liền với sự kiện xảy ra cho cuộc đời ông.[9] Vợ ông chết và ông không được phép để tang. Ông bị câm cho đến khi lời tiên tri được ứng nghiệm. Lời tiên tri được chép đầy đủ trong Ê-xê-chi-ên chương 24. Lời tiên tri được trích như sau: “Hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ làm ô-uế nơi thánh ta, là nơi các ngươi lấy làm khoe khoang về quyền năng mình, mắt các ngươi ưa thích, lòng các ngươi thương xót; và những con trai con gái các ngươi mà các ngươi đã để lại, sẽ ngã bởi gươm.” (Ê-xê-chi-ên 24:21).

            Hầu hết các tiên tri trong thời kỳ trước khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ đều nói tiên tri về sự kiện này. Những lý do khiến Đức Giê-hô-va hình phạt Giê-ru-sa-lem được các tiên tri đưa ra khá giống nhau đó là vì sự phạm tội của dân sự Chúa, thờ lạy hình tượng, đặc biệt là thần Ba-anh xứ Ca-na-an, các thần của Ba-by-lôn và dân chúng làm điều gian ác trước mặt Ngài. 

 

3. Hổ Thẹn và Tủi Nhục: Vinh Quang Giê-hô-va Lìa Giê-ru-sa-lem

            Vinh quang của đền thờ Giê-ru-sa-lem từ những ngày đầu tiên được Đức Chúa Trời ban phước bao nhiêu, thì nay nơi này chỉ còn lại với sự hổ thẹn và tủi nhục. Sự nhục nhã và xấu hổ không chỉ liên quan đến những lãnh đạo, thầy tế lễ, các quan tướng và dân sự, mà còn liên quan đến cả nơi thánh, là đền thờ Giê-ru-sa-lem. Sự nhục nhã kinh khủng được tiên tri Ê-xê-chi-ên mô tả rất chi tiết qua những sự hiện thấy của mình.

            a. Giê-ru-sa-lem bị kể như người đàn bà tà dâm. 

Đức Giê-hô-va phán: “Chúng nó trở nên thuộc về ta, và đẻ con trai con gái. Ô-hô-la tức là Sa-ma-ri, còn Ô-hô-li-ba, tức là Giê-ru-sa-lem.” (Ê-xê-chi-ên 23:4). Đức Giê-hô-va mô tả Ô-hô-li-ba như sau: “Em gái nó là Ô-hô-li-ba đã xem thấy mọi việc đó; dầu vậy, nó buông mình theo tình dục hơn chị nó; và sự hành dâm của nó lại còn nhiều hơn.” (23:11)“Những người Ba-by-lôn đến cùng nó lên giờng âu yếm, và chúng làm ô-uế nó bởi sự hành dâm mình. Nó cũng tự làm ô-uế với chúng; rồi thì lòng nó sinh chán.” (23:18). Đức Giê-hô-va cũng chán người đàn bà tà dâm này. Ngài phán “Nó đã tỏ bày sự dâm ô mình, đã lột truồng mình ra, thì lòng ta cũng chán nó, như đã chán chị nó.” (23:19).

            Sự hành dâm này trong thực tế đó là sự thờ lạy các thần tượng của Ba-by-lôn và thần Mo-lóc. Đức Chúa Trời phán: “Chúng nó lại còn làm sự nầy nghịch cùng ta: cùng trong một ngày chúng nó đã làm ô-uế nơi thánh ta, và phạm các ngày sa-bát ta; sau khi đã giết con cái mình dâng cho thần tượng, trong ngày ấy chúng nó vào trong nơi thánh ta đặng làm ô-uế! Ấy đó là điều chúng nó đã làm giữa nhà ta!” (23:38-39).

            b. Đời sống ô-uế của cả dân chúng

Cả xã hội từ lãnh đạo đến dân chúng, từ thầy tế lễ trong đền thờ đến các tiên tri, từ người lớn đến người nhỏ đều phạm luật pháp của Đức Chúa Trời và chống nghịch cùng Ngài. “Các thầy tế lễ nó phạm luật pháp ta, và làm dơ vật thánh ta; chẳng phân biệt cái gì là thánh, cái gì là tục; chẳng khiến người ta phân biệt cái gì là ô-uế, cái gì là tinh sạch; nhắm mắt chẳng xem các ngày sa-bát ta, và ta bị nói phạm giữa chúng nó. Các quan trưởng ở giữa nó giống như muông sói xé mồi, chỉ lo làm đổ máu, làm mất linh hồn, để được lợi bất nghĩa...Dân trong đất làm sự bạo ngược, phạm sự trộm cướp, khuấy rối kẻ nghèo nàn thiếu thốn, và ức hiệp người trú ngụ cách trái phép.” (22:26-29)

            Đức Giê-hô-va tìm kiếm một người để xây lại sự thối rữa mục nát về đạo đức của Y-sơ-ra-ên, mà Ngài chẳng tìm được một ai. “Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không huỷ diệt nó; song ta chẳng tìm được một ai.” (22:30).

            c. Đền thờ bị làm ra dơ dáy và gớm ghiếc

Trong lúc đó, tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, sự dơ dáy và gớm ghiếc được tìm thấy chính trong hành lang và tường bên trong của đền thờ đầy dẫy sự gớm ghiếc. “Ngài lại phán: Hãy vào xem những sự gian ác đáng gớm mà chúng nó làm ra ở đây. Vậy ta vào, xem thấy; và nầy, có mọi thứ hình tượng côn trùng và thú vật gớm ghiếc, mọi thần tượng của nhà Y-sơ-ra-ên đã vẽ chung quanh tường. Trước mặt các thần tượng ấy đứng bảy mươi trưởng lão của nhà Y-sơ-ra-ên, giữa đám họ có Gia-a-xa-nia, con trai Sa-phan, mỗi người tay cầm lư hương, khói thơm bay lên nghi ngút.” (8:9)

            d. Shekinah của Đức Giê-hô-va phải lìa xa đền thờ

Tất cả những sự gớm ghiếc xảy ra tại đền thờ khiến cho Đức Giê-hô-va phải xa nơi thánh của Ngài. Trong sự hiện thấy của Ê-xê-chi-ên, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va phải lìa khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nếu trước đây, đền thờ Giê-ru-sa-lem là nơi thánh vinh hiển vì sự hiện diện của Đức Giê-hô-va, thì giờ đây sự vinh hiển của Chúa phải rời xa thành thánh. Thuật ngữ Shekinah thường được dùng để nói đến sự hiện diện vinh hiển của Đức Giê-hô-va từng ngự ở đền tạm trong Xuất Ê-díp-tô ký, hoặc trong trụ mây và trụ lửa, hoặc tại lễ khánh thành đền thờ vua Sô-lô-môn xây dựng.[10] Nay Shekinah đó, di chuyển ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem.[11]

Ê-xê-chi-ên 10:18 chép rằng: “Sự vinh hiển Đức Giê-hô-va ra khỏi ngạch cửa nhà, và đứng trên các chê-ru-bim.” Sau đó, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên và rời khỏi đền thờ mà đứng về phía đông thành. “Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ giữa thành và đứng trên núi ở phía đông thành” (11:22). Đức Giê-hô-va phải lìa xa khỏi nơi ô-uế, dơ dáy và gớm ghiếc, là nơi mà Ngài đã từng yêu mến và từng hứa rằng “mắt và lòng ta sẽ ở đó luôn luôn”.

 

4. Lời Tiên Tri Ứng Nghiệm: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem Hoàn Toàn Sụp Đổ

Lời phán dặn của Đức Giê-hô-va cho vua Sa-lô-môn và dân sự của người về mọi điều mà họ phải cẩn thận làm theo ngay từ lúc ban đầu nay đã ứng nghiệm. Không những vậy, trước khi sự việc xảy đến, Đức Chúa Trời đã gởi đến sứ điệp về sự hình phạt của Ngài sẽ giáng trên Giê-ru-sa-lem qua các đấng tiên tri.

Vào ngày 9 tháng Av (tháng năm) năm 587 TC. Giê-ru-sa-lem bị tấn công và thiêu huỷ. Dân Y-sơ-ra-ên gọi đó là ngày 9 tháng Av và là ngày khóc than vì đền thánh bị phá huỷ. Theo lịch sử Thánh Kinh thì có hai ngày được ghi lại. 2 Các Vua 25:8 nói rằng đó là: “ngày 7 tháng năm, năm thứ 19 đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. Người thiêu đốt đền thờ Đức Giê-hô-va, cung của vua và mọi nhà trong thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt luôn các nhà của người sang trọng.”

Trong khi đó Giê-rê-mi thì ghi lại là ngày 10 tháng Av. Theo The Tosefta Ta'anit 4:10 giải thích rằng ngày 7 là bức tường bên ngoài bị đánh sập, đến ngày 10, thì mọi thứ đều bị thiêu huỷ

[12]  Sử ký chép rằng “Chúng đốt đền Đức Chúa Trời, đánh đổ vách thành Giê-ru-sa-lem, lấy lửa đốt các cung điện và phá huỷ các khí dụng tốt đẹp của nó.” (2 Sử Ký 36:19) Giê-rê-mi mô tả chi tiết hơn về sự huỷ phá đền thờ. “Quân Canh-đê phá tan các cột đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, cả đến đế tảng và biển đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, rồi đem những đồng đó về Ba-by-lôn. (Giê-rê-mi 52:17). Dấu hiệu về ngày huỷ diệt, ngày 9 tháng Av sẽ được phân tích chi tiết hơn ở phần sau khi tôi đề cập đến sự sụp đổ lần thứ hai của đền thờ Giê-ru-sa-lem.

Tất cả các lời tiên tri từ hơn 170 năm trước lần lượt ứng nghiệm trong sự kiện lịch sử này. Giê-ru-sa-lem bị huỷ diệt. Đền thờ của Đức Giê-hô-va bị đốt cháy. Thầy tế lễ, các quan tướng và dân sự bị bắt làm phu tù. Sự tan thương này được Giê-rê-mi mô tả trong Ca Thương như sau: “Kẻ thù đã giơ tay trên mọi vật tốt nó; vì nó đã thấy các dân ngoại xông vào nơi thánh nó... Đức Giê-hô-va đã bỏ bàn thờ, lại gớm nơi thánh; Ngài đã phó thành quách cung điện Si-ôn vào trong tay quân nghịch..chúng nó làm om sòm trong nhà Đức Giê-hô-va..” (Ca Thương 1:10; 2:7).

 

Như vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi được cho là thành thánh vinh hiển, nơi có sự hiện diện của Đức Giê-hô-va đã bị huỷ diệt để làm cho ứng nghiệm lời các đấng tiên tri bởi Đức Chúa Trời phán ra. Giê-ru-sa-lem đã từng đẹp đẽ vinh hiển thể nào, thì nay nó cũng chỉ là một đống đổ nát. Nhiều người cho rằng Giê-ru-sa-lem sụp đổ tất cả đều liên quan đến chính trị và sai lầm của lãnh đạo vương quốc Giu-đa. Tuy nhiên, trong thâm tâm của mỗi người Y-sơ-ra-ên đều tin rằng đó là do chính tội lỗi của họ, vì đã không làm theo giao ước với Đức Chúa Trời mình.

 Dù Y-sơ-ra-ên bị hình phạt, dù đền thờ Giê-ru-sa-lem bị Đức Giê-hô-va bỏ rơi, nhưng Chúa vẫn là Đấng hay thương xót. Sự xấu hổ và nhục nhã kia sẽ được xây dựng lại. Đức Giê-hô-va sẽ thăm viếng dân sự Ngài và phục hồi đền thánh của Ngài. Đền thờ cùng tất cả sự tốt đẹp sẽ trở lại khi dân sự của Chúa thật sự quay về trong sự yêu mến kính sợ Đức Giê-hô-va. Đó là lý do tại sao, Y-sơ-ra-ên vẫn còn hy vọng nơi Đức Giê-hô-va, mà Giê-rê-mi đã viết: “Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt; Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm.” (Ca-thương 3:22-23).

Lời tiên tri về sự lập lại của đền thờ đã ứng nghiệm. Sau bảy mươi năm phu tù tại Ba-by-lôn, dân Y-sơ-ra-ên được trở về quê hương. Đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng lại bởi Xô-rô-ba-bên (Zerubabel), với sự cho phép của Đế quốc Ba-Tư (Persia Empire) dưới thời vua Si-ru Đại Đế năm 559 TC, và Đa-ri-út Đại Đế năm 516 TC., được Kinh Thánh ký thuật trong sách Ê-xơ-ra 1-6. Vách thành Giê-ru-sa-lem được trùng tu bởi Nê-hê-mi năm 445 TC, (Nê-hê-mi 1-13). Vài trăm năm sau, đền thờ Giê-ru-sa-lem được trùng tu và nới rộng bởi vua Hê-rốt Đại Đế trong đầu thế kỷ thứ nhất khoảng năm 20 SC. (Giăng 2:20)[13]              

Tuy nhiên, nếu dân sự vẫn tiếp tục không vâng lời, không giữ giao ước, không đi theo con đường kính sợ Đức Giê-hô-va, thì đền thờ kia dù được phục hồi, nơi thánh kia dù được dựng lên, đền đài kia dù đẹp đẽ hơn, sẽ tiếp tục là nơi hoang tàn. 

Chính vì lẽ đó, xuyên suốt lịch sử đền thờ Giê-ru-sa-lem đã trở thành tâm điểm mang dấu ấn của sự hình phạt và sự phục hồi. Khi đền thờ phục hồi, lúc đó sự hiện diện của Chúa trở lại. Khi đền thờ bị huỷ phá, điều đó đồng nghĩa với sự huỷ diệt và chết chóc cho cả dân tộc. 

Sau khi đền thờ thứ nhất bị sụp đổ, các lời tiên tri đề cập đến thể nào đền thờ được phục hồi. Nhưng rồi theo lời tiên tri của Đa-ni-ên trong tương lai, sẽ có sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh. Chính về điều này mà Chúa Giê-xu từng phán dạy rằng: “Khi các ngươi sẽ thấy sự gớm ghiếc tàn nát lập ra trong nơi thánh, mà tiên tri Đa-ni-ên đã nói (ai đọc phải để ý).” (Ma-thi-ơ 24:15).[14] Sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh sẽ đánh dấu thời kỳ yếm thế, thời kỳ tung hoành của thế lực bóng tối và thù địch, cũng có thể đi kèm với sự xuất hiện của Anti-Christ.

            Trong phần sau, Phần 2: Sự Gớm Ghiếc Lập Ra Trong Nơi Thánh, tôi sẽ đề cập đến thể nào lời tiên tri của Đa-ni-ên và Chúa Giê-xu được ứng nghiệm trong sự sụp đổ của đền thờ thứ hai. Phần này phân tích lý do dân Y-sơ-ra-ên vẫn tiếp tục không kính sợ và không yêu mến Đức Chúa Trời mình. Minh chứng rõ ràng nhất là khi Đấng Mê-si đến và họ đã khước từ bằng cách giết Ngài. Trong sự kiện Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ và đền thờ bị huỷ phá lần thứ hai, có một sự gớm ghiếc lập ra trong nơi thánh như lời tiên tri đã phán. Sự sụp đổ hoang tàn này kéo dài cho đến khi Giê-ru-sa-lem bị quân Hồi giáo xâm chiếm và họ xây dựng đền thờ Hồi giáo Al-Aqsa Mosquethe Doom of Rock và the Doom of Chain trên nền của đền thờ Giê-ru-sa-lem và toàn bộ Núi Thánh (The Temple Mount) cho đến ngày nay. Sự ứng nghiệm của các lời tiên tri về đền thờ Giê-ru-sa-lem trong lịch sử và những chứng tích tồn tại cho đến nay khiến cho dân Do-thái và Cơ đốc giáo nói chung lấy làm sững sờ và tự hỏi rồi đây điều gì sẽ xảy đến cho đền thánh của Chúa trong tương lai? Liệu đền thờ thứ ba theo lời đồn đoán sẽ được xây dựng sẽ là điềm tốt hay tiếp tục là điềm gở và là sự gớm ghiếc trước mặt Đức Giê-hô-va?

 

Phước Lê

Vietnamese Baptist Church San Diego

May 6, 2017

Hậu Chú:



[1] Harold D. Foods, “Jerusalem in Biblical Prophecy,” Dictionary of Premillenial Theology, ed. Mal Couch (Grand Rapids: Kregel Publication, 1996), 207.

[2] Randall Price, Jerusalem in Prophecy: God’s Stage for the Final Drama (Oregon: Harvest House Publishers, 1998), 78.

[3] 1 Sử Ký 21 chép rằng, “Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem đặng huỷ diệt nó; đương khi huỷ diệt, Đức Giê-hô-va xem thấy, bèn ăn năn việc tai vạ nầy, và nói với thiên sứ đi huỷ diệt rằng: Thôi! Bây giờ hãy rút tay ngươi lại. Bấy giờ thiên sứ  của Đức Giê-hô-va đứng gần sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.”

[4] Willem A. VanGemeren, Interpreting Prophetic Word: An Introduction to the Prophetic Literature of the Old Trestament (Grand Rapids: Zondervan Publishing House, 1990), 249.

[5] Ibid., 150.

[6] Ibid., 338.

[7] Ibid., 168.

[8] Ibid., 173.

[9] Ibid., 323.

[10] Xem chi tiết về thuật ngữ Shekinah được mô tả bởi tác giả James Murphy, trong quyển George Bush, Notes, Criticals and Practicals in the book of Exodus (Boston: Henry A. Young and Co., 1948), 293-300.

[11] Randall Price, The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future, 72.

[12] Tosefta Ta’anit là bộ luật truyền khẩu Do-Thái trong khoảng thế kỷ thứ 2 T.C đến khoảng năm 70 SC. Thời kỳ này cũng được gọi là thời kỳ Mishna, là thời gian hiệu đính bản Ngũ Kinh Truyền Miệng và các lời dạy truyền khẩu khác. Tosefta đóng góp một phần vào trong phần hiệu chỉnh này.

13 Randall Price, The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future, 61.

14 Lời tiên tri Đa-ni-ên 9:26-27 viết như sau: “ Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Ðấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và sẽ không có chi hết. Có dân của vua hầu đến sẽ hủy phá thành và nơi thánh; cuối cùng nó sẽ như bị nước lụt ngập, có sự tranh chiến cho đến cuối cùng; những sự hoang vu đã định. Người sẽ lập giao ước vững bền với nhiều người trong một tuần lễ, và đến giữa tuần ấy, người sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi. Kẻ hủy phá sẽ đến bởi cánh gớm ghiếc, và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là kỳ đã định.”

 

Sách Tham Khảo:

Foods Harold D., “Jerusalem in Biblical Prophecy,” Dictionary of Premillenial Theology, ed. Mal 

Couch. Grand Rapids: Kregel Publication, 1996.

Price, Randall. Jerusalem in Prophecy: God’s Stage for the Final Drama. Oregon: Harvest House 

Publishers, 1998.

Price, Randall. The Temple and Bible Prophecy: A Definite Look at Its Past, Present and Future

Eugene: Harvest House Publishers.

VanGemeren, Willem A. Interpreting Prophetic Word: An Introduction to the Prophetic

 Literature of the Old Trestament. Grand Rapids: Zondervan Publishing House, 1990.

Murphy, James trong George Bush, Notes, Criticals and Practicals in the book of Exodus. Boston: 

Henry A. Young and Co., 1948.

Mitchell, Chris. Dateline Jerusalem: An Eyewitness Account of Prophecies Unfolding in the 

Middle East. Nashville: Thomas Nelson, 2013.

Cahn, Jonathan. The Mystery of the Shemitah. Lake Mary: Frontline, 2014.