Giải Nghĩa Hê-bơ-rơ 10: 19-39 (Tác giả: Sinh Viên Chánh, N. V, TpHCM)
A/ Giới thiệu:
Thư tín Hê-bơ-rơ là một quyển sách vô
danh, được xem như là báo vật quí giá trong tài sản nhà vua. Sự vinh hiển của
Đấng Chrits chiếu sáng qua từng trang sách. Từ những từ ngữ, phong cách, đến
cách trình bày điều rõ ràng và đầy màu sắc đáng được khen ngợi với tất cả những
lời hoa mỹ dành cho nó. Thư tín nầy gọi là quyển sách giải nghĩa Cựu ước hay
nhất vì nó giải nghĩa lịch sử, giải thích sự ứng nghiệm của lời tiên tri, và
trên hết đó là bày tỏ mục đích cuối cùng của hệ thống thờ phượng thời xưa.
Hê-bơ-
rơ mang hình ảnh của Đấng Christ với bối cảnh của nó là cựu ước. Tác giả gửi
đến người đọc lời đề nghị thẳng thắn và gấp rút “ Hãy suy nghĩ đến Chúa Jesus”.
Hê-bơ-rơ trình bày sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc nhân ngày nay, là những ai ở trong tình trạng “tái
phạm” với những cái nhìn tội lỗi vào thế giới mà họ đã được cứu ra khỏi. Không
một Cơ Đốc nhân nào tránh khỏi tình trạng hâm hẩm và yếu đuối trong đức tin, Hê-bơ-rơ
nói đến những điều nầy. Đây là một quyển sách rất thực tế.
Dù
trong phạm vi giới hạn của bài viết ở đoạn 10: 19-39, nhưng tôi thiết nghĩ cũng
đủ để chúng ta có thể làm sang tỏ được vấn đề nầy.
B/ Bản
văn:
New American
Standard Bible
19 Therefore, brothers, since we have
confidence to enter the Most Holy Place by the blood of Jesus, 20 by a new and
living way opened for us through the curtain, that is, his body, 21 and since
we have a great priest over the house of God, 22 let us draw near to God with a
sincere heart in full assurance of faith, having our hearts sprinkled to
cleanse us from a guilty conscience and having our bodies washed with pure
water. 23 Let us hold unswervingly to the hope we
Bản truyền thống:
19 Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức
Chúa Jesus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20 bởi đường mới và sống mà Ngài đã
mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, 21 lại vì chúng ta có một
thầy tế lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22 nên chúng ta hãy lấy
lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tươi sạch khỏi lương tâm
xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa. 23 Hãy cầm giữ sự làm chứng
về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì
Bản phổ thông:
19 Cho nên , thưa anh chị em, bây giờ
chúng ta nay được hoàn toàn tự do và dạn dĩ vào Nơi Chí Thánh do sự chết của
Chúa Jesus mang lại. 20 Chúng ta có thể
đi trên con đường mới và sống mà Chúa Jesus đã mở ra cho chúng ta, dẫn chúng ta
qua bức màn, tức xác Ngài. 21 Và vì chúng ta có một thầy tế lễ tối cao rất lớn
quản trị cả nhà Thượng Đế, 22 cho nên chúng ta hãy lấy lòng chân thành và đức
tin vững chắc mà đến gần Thượng Đế vì chúng ta đã được tẩy sạch khỏi lương tâm
tội lỗi, thân thể
Bản dịch mới năm 2002
19Vậy, thưa anh chi em, vì chúng ta
vững tâm bước vào nơi chí thánh nhờ huyết Đức Chúa Jesus, 20 qua con đường mới
và sống mà Ngài đã mở xuyên qua bức màn, nghĩa là xuyên qua thân xác Ngài. 21
Chúng ta cũng có một vị thượng tế vĩ đại được lập lên trên nhà của Đức Chúa
Trời, 22 nên chúng ta phải đến gần Chúa với lòng chân thành, trong niềm tin
vững chắc, tâm khảm được tẩy sạch khỏi lương tâm ác, thân thể đã được tắm rửa
bằng nước tinh sạch. 23 Chúng ta hãy
profess, for he who promised is
faithful. 24 And let us consider how we may spur one another on toward love and
good deeds. 25 Let us not give up meeting together, as some are in the habit of
doing, but let us encourage one another- and all the more as you see the Day approaching.
26 If we deliberately keep on sinning after we have received the knowledge of the truth, no sacrifice for sins
is left, 27 but only a fearful expectation of raging fire that will consume the enemies of
God. 28 Anyone who
Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín. 24
Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25
chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau , và hễ anh
em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy. 26 Vì
nếu chúng ta đã nhận biết lẻ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có
tế lễ chuộc tội nữa, 27 nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và
lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi. 28 Ai đã phạm luật pháp Môi-se , nếu
được rửa bằng nước trong. Hãy nắm vững hy
vọng mà chúng ta đã xưng nhận vì tin chắc Thượng Đế sẽ làm được điều Ngài hứa.
24 Chúng ta hãy suy nghĩ đến nhau và tìm cách khuyến khích nhau, bày tỏ tình
yêu thương và làm điều thiện. 25 Đừng xao lãng các cuộc nhóm họp, như một số
người đang làm, nhưng hãy siêng năng nhóm họp, và khích lệ nhau. Khi thấy ngày
ấy đến gần chừng nào thì anh chị em hãy càng sốt sắng thêm chừng nấy. 26 Nếu sau
khi đã học biết chân lý mà chúng ta nhất quyết tiếp tục phạm tội thì không
còn sinh tế nào để
giữ vững không lay chuyển lời tuyên
xưng về niềm hy vọng của chúng ta, vì Đấng hứa với chúng ta luôn luôn thành tín. 24 Chúng ta hãy lưu ý khích lệ
nhau trong tình yêu thương và các việc lành. 25 Đừng bỏ sự nhóm họp với nhau
như thói quen của vài người, nhưng hãy khuyến khích nhau; anh chị em càng làm
như thế nhiều hơn khi thấy Ngày Chúa càng gần. 26 Sau khi nhận biết chân lý,
nếu chúng ta còn cố ý phạm tội, thì không còn sinh tế nào chuộc tội được nữa, 27
chỉ còn sợ sệt chờ đợi sự xét đoán và lửa hừng sắp thiêu đốt những
rejected the law of Moses died without
mercy on the testimony of two or three witnesses. 29 How much more severely do
you think a man deserves to be punished who has trampled the Son of God under
foot, who has treated as an unholy thing the blood of the covenant that
sanctified him, and who has insulted the Spirit of grace? 30 For we know him
who said, "It is mine to avenge; I will repay," and again, "The
Lord will judge his people." 31 It is a dreadful thing to fall into the
hands of the living God.
có hai ba người làm chứng, thì chết đi
không thương xót, 29 huống chi kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời, coi huyết của
giao ước, tức là huyết mà mình nhờ nên thánh, là ô uế, lại khinh lờn Đức Thánh
Linh ban ơn, thì anh em há chẳng tưởng
rằng người ấy đáng bị hình rất nghiêm
đoán phạt hay sao? 30 Vì chúng ta biết Đấng đã phán rằng: Sự trả thù
thuộc về ta; ta sẽ báo ứng, Ấy làlời Chúa phán. Lại rằng: Chúa sẽ xét đoán dân
mình. 31 Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay! 32 Hãy
nhớ lại những
chuộc tội lỗi nữa. 27 Chỉ còn có lo sợ
chờ đợi sự trừng phạt và lửa khủng khiếp tiêu diệt những kẻ chống nghịch Thượng
Đế mà thôi. 28 Ai không vâng giữ luật pháp Môi-se thì bị kết tội dựa theo bằng
cớ của hai hoặc ba nhân chứng và bị xử tử, không khoan hồng. 29 Cho nên anh chị
em phải nghĩ đối xử thế nào với những kẻ coi thường Con Thượng Đế, xem huyết
giao ước đã thánh hóa họ chẳng khác nào một thứ huyết khác, sỉ nhục Thánh Linh
của ân phúc Thượng Đế? Chắc chắn họ phải bị trừng phạt nặng
hơn. 30 Chúng ta
kẻ chống nghịch. 28 Ai bất chấp luật
pháp Môi-se nếu có hai hay ba người làm chứng thì bị xử tử không thương xót. 29
Huống hồ kẻ chà đạp Con Đức Chúa Trời, coi thường huyết giao ước đã thánh hóa
mình và xúc phạm Thánh Linh ban ân sủng, thì anh chị em tưởng kẻ ấy không đáng
bị hình phạt nặng nề hơn hay sao? 30 Vì chúng ta biết Đấng đã phán: “Sự báo thù
thuộc về Ta; chính Ta sẽ báo ứng,” lại bảo: “Chúa sẽ xét đoán dân Ngài.” 31 Sa
vào tay Đức Chúa Trời Hằng Sống là một điều khủng khiếp! 32 Nhưng anh
chị em hãy
32 Remember those earlier days after you
had received the light, when you stood your ground in a great contest in the
face of suffering. 33 Sometimes you were publicly exposed to insult and
persecution; at other times you stood side by side with those who were so
treated. 34 You sympathized with those in prison and joyfully accepted the
confiscation of your property, because you knew that you yourselves had better
and lasting possessions. 35 So do not throw away your confidence; it will be
richly rewarded.
lúc ban đầu đó, anh em đã được soi sáng rồi, bèn
chịu cơn chiến trận lớn về những sự đau đớn: 33 phần thì chịu sỉ nhục, gặp gian
nan, như làm trò cho thiên hạ xem, phần thì chịu khổ với với những kẻ bị đối
đãi đồng một cách. 34 Vì anh em đã thương xót kẻ bị tù, và vui lòng chịu của
cải mình bị cướp, bởi biết mình có của cải quí hơn hằng con luôn. 35 Vậy chớ bỏ lòng dạn dĩ mình , vốn có một phần
thưởng lớn đã để dành cho. Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm
theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình.
biết Thượng Đế phán “ Ta sẽ trừng phạt kẻ
phạm tội; Ta sẽ báo trả họ” Ngài cũng phán thêm, “ Chúa sẽ xét xử dân Ngài” 31
Rơi vào tay Thượng Đế hằng sống là điều khủng khiếp. 32 Hãy nhớ lại trước kia
lúc anh chị em mới học biết chân lý. Anh chị em phải chiến đấu gay go với nhiều
khổ đau nhưng vẫn vững mạnh. 33 Đôi khi bị chế giễu và bị ngược đãi công khai
và đôi lúc anh chị em cùng sản sẻ với những người gặp đồng hoàn cảnh. 34 Anh
chị em giúp đỡ và chia sẻ nổi khổ của những kẻ tù tội và khi bị người ta tước
đoạt tài sản rmà vẫn
nhớ lại những ngày trước kia, khi mới
được soi sáng, anh chị em đã kiên trì trong một cuộc chiến đấu lớn lao, nhiều
đau khổ, 33 khi thì công khai chịu sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì chia xẻ nổi
niềm của những người gặp cảnh ngộ đó. 34 Thật thế, anh chị em đã cùng chịu đau
khổ với các tù nhân, vui mừng chập nhận khi bị tịch thu tài sản vì biết rằng
mình có tài sản tốt hơn và con mãi. 35 Vậy, anh chị em đừng bỏ lòng tin tưởng
chắc của mình, là điều đem lại giải thưởng lớn. 36 Anh chị em cần kiên trì để
sau khi làm theo ý muốn của Đức
36 You need to persevere so that when
you have done the will of God, you will receive what he has promised. 37 For in
just a very little while, "He who is coming will come and will not delay.
38 But my righteous one will live by faith. And if he shrinks back, I will not
be pleased with him." [ 39 But we are not of those who shrink
back and are destroyed, but of those who believe and are saved
37 Còn ít lâu, thật ít lâu nữa, thì Đấng
đến sẽ đến; Ngài không chậm trễ đâu
38 Người công bình của ta phải cậy đức tin
mà sống, nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào. 39 Về
phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho
linh hồn được cứu rỗi.
vui vì biết mình có những của cải tốt hơn và
bền vững hơn.35 Cho nên đừng mất lòng can đảm của anh chị em, vì có phần thưởng
rất lớn đi theo. 36 Anh chị em hãy bền
lòng vâng theo ý muốn của Thượng Đế và nhận được điều Ngài hứa. 37 Vì ít lâu
nữa thôi, “Đấng phải đến sẽ đến. Ngài không chậm trễ đâu. 38 Người đã giảng hòa
cùng ta sẽ sống bằng đức tin. Nhưng nếu sợ hãi mà quay đi, thì ta sẽ không vui
chút nào”. 39 Nhưng chúng ta không phải là những kẻ quay đi để bị chết mất.
chúng ta là những người có đức
rỗi.
Chúa Trời, anh chị em sẽ hưởng được
điều Ngài đã hứa. 37 Vì còn ít lâu, chỉ ít lâu thôi, thì Đấng ngự đến sẽ tới
nơi, không trì hoãn. 38 Nhưng “người
công chính của ta sẽ sống bởi đức tin”. Nếu lùi bước đi thì linh hồn ta chẳng
vui về người. 39 Nhưng chúng ta không phải là những người chịu lùi bước để rồi
bị hư vong , nhưng là những người giữ đức tin để được sự sống.
I/ Phân tích bản văn:
- Bản văn và các vấn đề bản văn:
Ở đây bản New American Standard Bible dùng blood of Jesus,
bản truyền thống dịch huyết Đức Chúa Jesus, bản dịch mới năm 2002 cũng dịch
huyết Đức Chúa Jesus, nhưng bản phổ thông lại dịch sự chết của Chúa Jesus. Vậy
ta thấy bản phổ thông không chính xác (câu 19)
Bản New American Standard Bible dùng Most Holy place, bản truyền thống dịch
nơi Rất Thánh, hai bản dịch kia đều dùng nơi Chí Thánh. Ở đây ta thấy các ý
nghĩa điều tương tự.
Bản New American Standard Bible dùng a great priest, bản truyền thống dịch
thầy tế lễ lớn, bản phổ thông lại dịch thầy tế lễ tối cao, bản dịch mới năm
2002 dịch thầy tế lễ vĩ đại. Ở đây bản phổ thông dịch không sát nghĩa băng các
bản kia.
Bản New American Standard Bible dùng God, bản
truyền thống và bản dịch mới năm 2002 đều dịch Đức Chúa Trời, còn bản phổ thông
lại dịch Thượng Đế, (câu 21). Theo trào lưu ngày nay, người ta hay gọi những
khách hàng của họ là Thượng-đế, vì thế tôi e rằng sẽ người những người nhạo
bang và hiểu lầm.
Bản New American Standard Bible my righteous one will live by faith, bản
truyền thống dịch Người công bình của ta phải cậy đức tin mà sống, bản phổ
thông dịch Người đã giảng hòa cùng ta sẽ sống bằng đức tin, bản dịch mới năm
2002 cũng người công chính của ta sẽ sống bởi đức tin. Ở đây bản New American Standard Bible và bản dịch
mới năm 2002 là chính xác hơn…
Tại
đây, chúng ta nhận thấy có đôi điều khác nhau giữa các bản dịch Kinh thánh
tiếng Việt, sở dĩ có sự khác nhau này là vì mỗi từ ngữ trong nguyên văn
Hy-lạp có nhiều nghĩa tương đương trong tiếng Việt, nhưng khi dịch Kinh thánh
từ nguyên văn ra tiếng Việt thì các các dịch giả đã chọn những từ mình thích
nên có các sự khác nhau. Điều này khiến cho người đọc cũng hiểu những từ ngữ,
những phân đoạn Kinh thánh này một cách khác nhau, dẫn đến có sự khác nhau
trong việc giải thích Kinh thánh... Sau khi so sánh với bản New American Standard Bible tôi chọn bản Truyền Thống để
làm nền tảng cho bài làm nầy, vì thấy bản Truyền Thống dịch chính xác hơn hai
bản dịch kia .
- Giới hạn bản văn:
Hê-bơ-rơ
đoạn 10 : 19-39 là phân đoạn kinh thánh rất đặc biệt, vì từ đoạn 1: 1 đến 10: 18
tác giả đã cho thấy vai trò của Chúa Jesus trong công cuộc cứu chuộc của Đức
Chúa Trời là hoàn hảo khi so sánh Ngài với các nhân vật cũng như các phương
cách của thời cựu ước. Đến 10:19-39 là một sự đúc kết cho vấn đề ông muốn nói ở
trên, và nó cũng làm nền liên kết các đoạn còn lại, đặc biệt là đoạn 11. Tuy
nhiên, phân đoạn nầy đã bao gồm khá đầy đủ nội dung mà chúng ta cần nghiên cứu,
nên chúng ta có thể nghiên cứu nó một cách độc lập.
II/ Tác
giả và tác phẩm:
1.
Tác giả:
Thật ra chưa ai có thể khẳn định về tác giả của sách Hê-bơ-rơ. Tuy nhiên
nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng sách Hê-bơ-rơ là của Phao-lô. Nhưng có một số
người lại cho rằng có thể là một trong những người bạn cùng làm việc với
Phao-lô là: A-bô-lô, hay Lu-ca, hay là Ba-na-ba. và cũng có người lại cho rằng:
của Aquila, Si-la, Phi-lip hoặc Clement ở
Rô-ma…
Nhưng theo quan điểm của tôi, khi đọc sách
Hê-bơ-rơ, tôi thấy đây là một bức thư mà đòi hỏi người viết không chỉ có một
kiến thức sâu rộng, mà phải có một sự uyên thâm về luật pháp của Đức Chúa Trời.
Ngoài ra tác giả của thư cũng phải có một kinh nghiệm riêng tư trong sự gặp gỡ
Chúa, và một sự từng trãi trong đức tin trên bước đường theo Ngài. Nghiên cứu mạch văn và sự tương quan của sách Hê-bơ-rơ
với các sách thư tín của Phao-lô tôi tin
rằng Hê-bơ-rơ là sách của Phao-lô.
Trong bản King James có ghi ở phần nhan đề:
Thơ tín của Phao-lô. Và ngay từ lúc đầu, giáo hội Đông Phương cũng đã nhìn nhận
Phao-lô là tác giả của sách Hê-bơ-rơ. Rồi đến thế kỷ thứ 4 thì giáo hội Tây
Phương cũng nhìn nhận đây là tác phẩm của Phao-lô.
2.
Niên hiệu:
Thơ tín nầy có thể được viết vào khoảng năm 65 – 70 S.C. Và chắc chắn là trước khi thành Giê-ru-sa-lem bị
hủy phá vào năm 70S.C, vì đây là biến cố rất lớn mà không thấy tác giả đề cập
đến. Trong đoạn 13: 24 “ các thánh đồ ở Y-ta-li” Vậy thơ nầy có thể được viết tại xứ Y-ta-li.
Và 13:23 cho thấy Ti-mô-thê đang ở với tác giả, và họ cùng đi lên Giê-ru-sa-lem
(Công 20:4), và sau đó đi tới kinh thành La-mã (Cô-lô-se 1:1).
III/ Người nhận thư và bối cảnh:
1. Người nhận:
Như thư tín thứ nhất của Giăng, thư
tín nầy không ghi tên người nhận. nhưng nội dung quyết chắc dành cho người Do
Thái, vì nó luận về mối liên quan của Đấng Christ với ban tế lễ Lê-vi và các tế
lễ trong đền thờ. Thơ nầy luôn luôn trưng dẫn Cựu-ước để xác chứng điều nó quả
quyết. Theo truyền thoại thường được công nhận, thì thơ nầy gửi cho các người
Do-thái tin theo Đấng Christ và họ đang ở xứ Pha-lét-tin; tuy nhiên, có một số
người nghĩ rằng có lẽ thơ nầy gửi cho người Do-thái ở La-mã, hoặc A-léc- xăn-
đơ-ri , hoặc ở nơi nào khác..
Và căn cứ vào nội dung của bức thư, cụ
thể 5:12; 10:32… ta thấy rằng độc giả thư nầy phải là những Cơ-đốc nhân trưởng
thành, đã có một từng trãi trên bước đường theo Chúa.
2. Bối cảnh lịch sử:
Thư nầy
được viết sau một thời kỳ mà người Cơ Đốc Do Thái gặp sự khủng hoảng lớn đó là
sự kiện Nê-rô đốt thành La-mã (năm 64S.C). Lúc nầy nhiều nhà lảnh đạo của họ
như Gia-cơ, Phi-e-rơ… bị giết. Cơ Đốc giáo bị gán cho là phạm tội, không còn có
sứ đồ nào để nâng đỡ khích lệ họ; và vì
thế đã có nhiều người lui đi trong đức tin. Tiếng gọi trở về đạo gốc Do-thái
càng nhiều hơn. Nếu những nhà hội trở thành nhà hội đạo Do-thái thì sẽ an toàn
hơn, vì dù sao đi nữa Do Thái Giáo vẫn là một tôn giáo hợp pháp dưới thời La-mã
và cả vùng thuộc địa của đế quốc.
Điều nầy càng rõ ràng hơn trong phân đoạn mà
chúng ta đang nghiên cứu khi tác giả đã nhấn mạnh đến đặc ân mà Cơ-đốc nhân
được nhận lảnh bởi huyết của Chúa Jesus qua sự chết của Ngài trên thập tự giá;
ông cũng đã cảnh cáo về sự phán xét kinh khiếp của Đức Chúa Trời đối với kẻ
phạm tội xem thường huyết của Chúa Jesus và đồng thời nhắc lại những những đau
đớn, hoạn nạn mà họ đã phải chịu vì đức tin của buổi ban đầu để khích lệ họ cứ
mạnh mẽ, dạn dĩ và vững vàng trong đức tin nới Cứu Chúa Jesus.
IV/ Phân tích ngữ văn
- Cách hành văn:
Với cách dùng từ ngữ đậm nét của thời
kỳ cựu ước, “Nơi rất Thánh, bức màng…”
cùng với lối văn mạch lạc, dứt khoát, “Hãy…,
chớ…” xen lẫn sự cảnh cáo, “Kinh
khiếp, phán xét, lửa hừng đốt cháy, không thương xót, báo ứng…” có và những
lời lẻ an ủi, khích lệ, “Người công bình
của Ta, linh hồn Ta chẳng lấy làm đẹp…” điều đó đã làm tăng giá trị của bức
thư, đem lại sự hiệu quả lớn cho người đọc cùng người nghe.
- Phương pháp truyền đạt:
Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu, (Chúa Jesus và Thiên-sứ, đoạn 1); (Chúa Jesus và Môi-se, đoạn 3); (Giao ước mới và cũ, đoạn 4); (Chúa Jesus và Mên-chi-xê-đéc, đoạn 7); Chúa Jesus và A-rôn, đoạn 7), tác giả đã
dùng những hình ảnh, những nhân vật của thời cựu ước, và qua đó ông đã làm nổi
bật hình ảnh, vai trò của Chúa Jesus để cũng cố đức tin và khích lệ những người
cơ đốc giữ vững lòng trung tín vời Ngài
VI/ Mục Đích Viết Thư:
Trong bối cảnh như vậy, tác giả đã
viết thư nầy nhằm nhen nhúm lại ngọn lửa đức tin dường như sắp tàn rụi, và khơi
lại lòng nhiệt huyết, sự nóng cháy đang ở trong giờ phút cấp thiết mà dường như
nhiều người đã muốn lui đi trong đức tin nơi Cứu Chúa Jesus.
1. Dạy dỗ:
-
Chúa Jesus chính là sinh tế để chuộc
tội lỗi chúng ta. Qua sự chết của Chúa Jesus và bởi huyết Ngài mà chúng ta được sạch tội và được dạn dĩ
vào nơi rất thánh. 10: 19-23
- Chúa Jesus cũng là cũng là thầy tế lễ thượng phẩm đời đời đang ngồi bên
hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho chúng ta. 10:
21.
-
Hãy nhớ đến sự hoạn nạn, thử thách
trong đức tin buổi đầu mà mình đã gánh chịu vì danh Chúa.
2. Khuyên bảo:
- Các tin hữu phải trung tin nhóm lại thờ phượng Chúa, đồng thời cũng nâng
đỡ, khích lệ niềm tin của anh em mình. 10: 24-25
-
Là người Cơ-đốc không được cố ý phạm tội.
10: 26-31.
- Không được lui đi trên bước đường theo Chúa, nhưng hãy cậy đức tin mà
sống để nhận được sự cứu rỗi linh hồn. Vậy đề tài mà tôi muốn dùng để phân tích
phân đoạn Kinh Thánh nầy là: HÃY DẠN
DĨ TRONG ĐỨC TIN.
VI/ cấu trúc ban văn: Hê-bơ-rơ 10 : 19 – 39
1. Câu chìa khóa: Hê-bơ-rơ 10 : 38-39
- Cấu Trúc:
Phần
1: Những đặc ân dành
cho người từng dạn dĩ trong đức tin: 10:19-23 .
a. Được dạn dĩ vào nơi rất thánh: c19:
b. Vào nới rất thánh bằng một con đường mới và
sống: c20
c. Có một thầy tế lễ lớn: c21
d. Được
đến gần Chúa: c22
e. Nhận lảnh lời hứa của Đấng
thành tín: 23
Phần
2: Trách nhiệm của
mỗi tin hữu để giúp đỡ nhau cùng dạn dĩ trong đức tin : 10: 24-25.
- Tách nhiệm đối
với gia đình: c24
- Trách nhiệm
đối với Hội Thánh: c25
Phần
3: Lời cảnh cáo, nhắc nhở
mỗi tín hữu cần phải dạn dĩ trong đức tin:
10: 26-31.
- Không được cố ý phạm tội: c26-29
- Sự hình phạt kinh khiếp: c30-31
Phần 4: Sự khích
lệ để các tín giữ vững sự dạn dĩ trong đức tin : 10: 32-39.
- Nhớ lại những lúc ban đầu: 32-36.
- Sự hy vọng và trông đợi của người dạn dĩ
trong đức tin: 37-39.
- Kết
luận:
Với cấu trúc thật rõ ràng, tác giả đã giục lòng các tín
hữu được mạnh mẽ và dạn dĩ trong đức tin nơi Chúa Cứu
Thế Jesus.
VII/
Phân tích từ ngữ :
1.Từ ngữ quan trọng :
·
Huyết Đức Chúa Jesus : Theo luật pháp thì hầu hết
mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch ; không có sự đổ huyết thì không có sự
tha tội.
Chúa Jesus chịu chết đổ huyết ra để làm sạch tội lỗi con người, nhờ đó tội nhân
được đến gần với Đức Chúa Trời (dạn dĩ vào nơi rất thánh)
·
Nơi Rất Thánh : Đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng
gồm : hành lang, bên trong là nơi Thánh, tiếp theo là nơi Chí Thánh (nơi
Rất Thánh). Trong nơi Chí Thánh có hòm giao ước được hai Chê-ru-bin che phủ (I
Vua 6 :23-28), đây được xem là nơi hiện diện của Đức Chúa Trời.
·
Cái màn : Giữa nơi Thánh và nơi Chí Thánh được ngăn
cách bằng một bức màn. Ngoài thầy tế lễ thương phẩm mỗi năm một lần được đi qua
bức màn nầy vào nơi chí thánh để cầu nguyện cho dân chúng, thì không một ai có
thể đến gần nơi nầy.(Hê-bơ-rơ 9 :25)
·
Ngang qua xác Ngài : Khi Chúa Jesus chịu chết trên
thập tự, thì bức màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên chì dưới, (Ma-thi-ơ
27 :50-51), để mở ra một con đường mới để tội nhân được đến với Đức Chúa
Trời.
·
Thầy tế lễ lớn : Muốn nói đến chức vụ đặc biệt mà
Đức Chúa Trời đã chọn lựa từ chi phái Lê-vi để đại diện cho dân chúng dâng tế
lễ cho Đức Chúa Trời và cầu thay cho họ. Xuất 28 :1-4
·
Đức Chúa Trời : Đây là một danh xưng của Đấng Tạo
Hóa. Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu (Xuất 3 :14)
·
Đức tin đầy dẫy : Muốn nói đến một đức tin mạnh mẽ,
trọn vẹn nơi Đức Chúa Trời
· Tưới sạch
... Rửa bằng nước trong : Đây là những nghi thức rất quan trọng và cần
thiết của thời cựu ước cho một người khi chuẩn bị ra mắt Đức Chúa Trời.
·
Đến gần Chúa : Đây là một ơn phước, một đặc ân rất
đặc biệt mà nếu Đức Chúa Trời không cho phép thì không ai có thể.
·
Thành tín : Đây là một đặc tính của Đức Chúa Trời,
Khi Ngài hứa điều gì với chúng ta thì Ngài có quyền làm trọn điều đó.
- Ngày ấy : Tức ngày Chúa Jesus trở lại để phán
xét thế gian nầy.
·
Lẽ thật : Là chân lý, và lẻ thật cũng chính là Chúa
Jesus (Giăng 14 :6)
·
Cố ý phạm tội : Có nghĩa là chúng ta đã biết rõ điều
đó là tội lỗi, và được Đức Thánh Linh
cáo trách, nhắc nhở nhưng chúng ta vẫn cứ làm.
·
Tế lễ chuộc tội : Thời cựu ước, khi dân sự phạm tội
thì họ phải đem đến cho thầy tế lễ một con chiên, hoặc con dê... để làm tế lễ
chuộc tội.
·
Sự phán xét : Chỉ về ngày chung kết cõi đời nầy, lúc
đó mọi người phải ứng hầu trước tòa án của Đức Chúa Trời để chịu sự phán xét.
- Lửa hừng : Chỉ về hồ lửa, là sự chết thứ
hai.(Khải huyền 20 :14)
·
Luật pháp Môi-se : Muốn nói đến Ngủ kinh Môi-se, cụ
thể hơn là mười điều răn của Đức Chúa Trời.
·
Con Đức Chúa Trời : Chính là Đức Chúa Jesus, khi nói
đến Con Đức Chúa Trời thì muốn nói đến Ngài là Đức Chúa Trời.
·
Huyết của giao ước : Chính là huyết của Đức Chúa
Jesus đã phải đổ ra trên thập tự giá.
·
Nên thánh : Tội nhân khi tin nhận Chua Jesus thì
được kể là Thánh nhân, được đứng vào địa vị thánh của Chúa
·
Đức Thánh Linh : Ngôi thứ ba trong ba Ngôi Đức Chúa
Trời, Ngài cũng chính là Đức Chúa Chúa Trời.
- Lời Chúa : Kinh Thánh chính là lời Đức Chúa
Trời
·
Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống: Đây là một ý
nghĩa hình bóng để nói đến sự uy quyền cùng với sự hình phạt kinh khiếp đối với
kẻ bội bạc chống lại Đức Chúa Trời.
·
Chiến trận lớn : Một người tin nhận Chúa Jesus là
bước vào một chiến trận, nhưng không phải chiến trận với con người mà là với
Ma-quỉ (Ê-phê-sô 6 :12)
·
Của cải quí hơn : Mọi sự của trần gian rồi sẽ qua
đi, và để dành cho lửa ; nhưng người tin nhận Chúa Jesus sẽ có cơ nghiệp ở
trên trời.
- Đấng đến sẽ đến : Là Chúa Jesus và sự trở lại
của Ngài.
·
Người công bình : Những người tin nhận Chúa Jesus
điều được kể là người công bình
·
Linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp: Muốn nói đến tình yêu sâu
đậm của tác giả cũng là tình yêu của Chúa dành cho dân sự của Ngài
·
Linh hồn được cứu rỗi : Đây là mục đích cuối cùng
trong chương trình của Đức Chúa Trời.
- Mục
đích sử dụng của tác giả :
Như chúng ta đã nói ở trên, đứng trước vấn đề nghiêm
trọng về tâm linh của các tín hữu. Dường như tất cả đã muốn lui đi trong đức
tin nới Cứu Chúa Thế để quay về với lối thờ phượng ngày xưa, của thời cựu ước.
Vì thế tác giả đã Tác giả dùng nhiều từ ngữ cũng như phong cách của cựu ước để
làm nổi bật vai trò của Chúa Jesus và công cuộc cứu chuộc của Ngài. Đồng thời
ông cũng nói đến sự phán xét của Đức Chúa Trời để cảnh cáo, nhắc nhở cũng như
khích lệ các tín hữu để họ giữ vững niềm tin, trung tín với Cứu Chúa Jesus.
VIII/ Giải Nghĩa :
1. Sứ điệp của tác giả :
Trong Hê-bơ-rơ
10 :19-39 tác giả nhấn mạnh :
a.
Sự đổ huyết và
chịu chết của Chúa Jesus trên thập tự giá đã mở ra cho con người một con đường
mới và sống ngang qua bức màn để vào trong nơi chí thánh.
b.
Qua Chúa Jesus
con người được thanh tẩy mọi tội lỗi, được nên thánh mà đến gần Đức Chúa Trời.
c.
Hãy tin cậy vững
chắc nơi Chúa Vì Ngài là Đấng thành tín.
d.
Người tin Chúa
phải biết quan tâm, chăm sóc, gây dựng đức tin cho nhau và trung tin trong sự
thờ phượng Chúa.
e.
Người tin chúa
không có quyền làm những điều tội lỗi, bất khiết.
f.
Người tin Chúa
phải biết rõ về sự phán xét của Đức Chúa Trời.
g.
Người tin Chúa
phải trung kiên chờ đợi ngày Chúa trở lại.
2. Giải Nghĩa :
Trong bối cảnh
chung khi các Cơ Đốc nhân đối diện với nhưng khó khăn, bắt bớ, họ muốn lui đi
trong đức tin nơi Chúa Cứu Thế Jesus để trở về với tôn giáo truyền thống của
họ. Phân đoạn kinh thánh đã nêu bật tầm quan trọng của đức tin nơi Đức Chúa
Jesus; tiếp theo đoạn 11 lại nêu lên những những tấm gương đức tin. Qua đó ta
có thể thấy được ý chính của phân đoạn kinh thánh mà tác giả muốn nói đến là kêu
gọi các tin hữu hãy bày tỏ sự dạn dĩ trong đức tin nơi cứu Chúa của mình. Vậy
ta có thể chọn cho phân đoạn nầy một đề tài : Cần phải dạn dĩ trong đức
tin. Và qua đề tài nầy chúng ta cũng có thể chia phân đoạn kinh thánh nầy
ra làm 4 phần sau :
Phần 1: Những
đặc ân dành cho người từng dạn dĩ trong đức tin: 10:19-23 .
a.
Nhờ huyết Chúa Jesus được dạn dĩ vào
nơi rất thánh: c19:
·
Nơi rất thánh (nơi chí thánh) là nơi
hiện diện của Đức Chúa Trời:
Đền thờ Giê-ru-sa-lem là trung tâm thờ
phượng Đức Chúa Trời. Đền thờ được xây dựng gồm : Hành lang, là nơi dành
cho người ngoại và phụ nữ Do Thái. Nơi thánh dành cho những người đàn ông Do
Thái. Nơi chí thánh là nơi bày tỏ sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
·
Nơi rất thánh chỉ có thầy tế lễ thượng
phẩm mới được vào:
Nơi rất thánh
nầy có để một Hòm Giao Ước của Đức Chúa
Trời, trong hòm có một bản luật pháp, cây gậy của A-rôn, bánh ma-na. Ở đây chỉ
có thầy tế lễ thượng phẫm mỗi năm mới được vào một lần để cầu thay cho dân sự,
và thầy tế lễ cũng không được phép ở lâu nơi nầy. Đây là qui luật Đức Chúa
Trời, nếu bất kỳ người nào không vâng giữ đúng sẽ bị tai họa tức khắc.
·
Nhờ huyết của Chúa Jesus mà được dạn
dĩ vào nơi rất thánh:
Vậy, chúng ta
thấy rằng trong thời cựu ước việc được vào nơi chí thánh là một vấn đề khó khăn
và nguy hiểm ; vì đó mọi người điều sợ hãi và không dám đến nơi nầy. Thầy
tế lễ thượng phẩm nhờ vào huyết của con sinh tế để mỗi năm vào đây một lần. Nhưng
ngày nay mỗi một người trong chúng ta đều có thể vào trong nơi chí thánh bất cứ
khi nào mà không phải sợ hãi ; vì sao vậy ? Ấy là nhờ
vào huyết của Chúa Jesus.
b.
Vào nơi
Rất Thánh bởi con Đường Mới và Sống: c20
·
Bức màn
ngăn cách nơi chí thánh:
Giữa nơi thánh và nơi chí thánh được ngăn cách bằng một bức màn.
·
Bức màn
bị xé ra khi Chúa Jesus chết:
Đây là một sự kiện hết sức quan trọng mà trong bốn sách
phúc âm thì đã có ba sách chép lại rằng : ...Đức Chúa Jesus kêu lên một tiếng lớn nữa rồi trút linh hồn. Và nầy,
cái màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên chí dưới. ( Mathi 27 :
50-51 ; Mác 15 : 37-38 ; Lu-ca 23 : 44)
·
Chúa
Jesus đã mở ra một con đường mới để vào nơi chí thánh:
Cảm tạ Chúa, qua điều nầy chúng ta đã thấy rõ Chúa Jesus đã vào trong nơi chí thánh, Ngài
không phải nhờ vào huyết của con sinh vật, mà Ngài đã lấy chính huyết của mình,
dâng một lần đủ cả, và qua đó Ngài đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống
ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài.
c.
Có một
thầy tế lễ lớn: c21
·
Vai trò
của thầy tế lễ:
Trong thời kỳ cựu ước, Đức Chúa Trời đã chọn chi phái
Lê-vi trong mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên để làm thầy tế lễ cho Ngài. Thầy tế lễ
có vai trò như một cầu nối giữa con người với Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ sẽ đại
diện cho dân sự dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời và cầu thay cho họ.
·
Chúa
Jesus là thầy tế lễ lớn :
Chúa Jesus không chỉ là một sinh tế chuộc tội cho nhân
loại, nhưng cũng lá một thầy tế lễ để cầu thay cho chúng ta nữa. Kinh Thánh
chép sau khi từ kẻ chết sống lại, Chúa Jesus thăng thiên ngồi bên hữu Đức Chúa
Trời để cầu thay cho chúng ta. (Công vụ 7 :55 ; Hê 8 :1-6)
·
Chúa
Jesus sẽ binh vực cho những người dạn dĩ trong đức tin :
Vì Đức Chúa Trời
chẳng ban cho chúng ta một tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thàn mạnh mẽ... (II
Ti-mô-thê 1 :7). Còn những kẻ hèn
nhát, kẻ chẳng tin... phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng
bừng (Khải- huyền 21 :8). Nhưng Chúa Jesus binh vực cho những kẻ yêu
mến Ngài và dạn dĩ trong đức tin (Rô-ma 8 :31-39).
d. …Đến
gần Chúa: c22:
Đây là cụm từ hết sức quan trọng mà
dân Y-sơ-ra-ên không bao giờ dám nghĩ tới; vì đối với họ từ trước đến nay ngoài
những người mà Chúa đã chọn và cho phép họ thì không ai tự động đến gần Chúa mà
có thể còn sống. Ngay cả các con trai của A-rôn là những thầy tế lễ của Đức
Chúa Trời nhưng khi đến gần Chúa và dâng cho Ngài một thứ lửa lạ thì họ cũng bị
chết. Câu 22 nầy dường như đã tóm tắc lại những nguyên tắc và nghi thức ở Lê-vi
ký 16: 1-19 mà Chúa đã dạy về đại lễ chuộc tội của dân Y-ra-ên. Nhưng ở đây cho
chúng ta thấy dân sự không còn phải lo lắng và khó nhọc để làm theo nghi thức
ấy nữa, mà mọi sự Đức Chúa Trời đã làm cho họ qua sự chết đổ huyết đền tội của
Chúa Jesus.
e. Nhận lãnh lời hứa của Đấng thành tín: 23
·
Có sự trông cậy vững chắc về
những lời hứa quí giá :
Những điều
chúng ta đề cập bên trên là những lời hứa quí giá của Chúa dành cho những ai có
sự dạn dĩ trong đức tin, và mọi điều đó đã được xác quyết bằng chính mạng sống
của Chúa Jesus. Vì thế Lời Chúa kêu gọi chúng ta phải nắm giữ vững chắc những
điều đó.
·
Chúa
Jesus là Đấng thành tín :
Điều chúng ta càng vững vàng trong sự tin cậy hơn nữa vì
Chính Chúa Jesus là Đấng là ban những lời hứa quí giá đó ; Ngài là Đấng
thành tín, và Ngài có quyền làm thành mọi lời hứa của Ngài.
Phần 2: Trách
nhiệm của mỗi tin hữu để giúp đỡ nhau cùng dạn dĩ trong đức tin : 10: 24-25.
Người dạn dĩ trong đức tin được nhận lãnh nhiều phước
hạnh từ nơi Chúa, và đặc ân luôn đi đôi với trách nhiệm ; trách nhiệm với
gia đình và trách nhiệm vời Hội Thánh.
- Trách nhiệm
đối với gia đình: c24
·
Phương diện thuộc thể:
Chăm sóc gia
đình là một trách nhiệm quan trọng đối với các con dân của Chúa, đặc biệt là
đối với những người dạn dĩ trong đức tin (I Ti-mô-thê 5 :8); vì gia đình là
phần tử rất quan trọng của Hội Thánh và xã hội.
·
Phương diện thuộc linh:
Không chỉ chăm
sóc gia đình về phương diện thuộc thể, nhưng phải chăm sóc về phương diện tâm
linh; vì chính phương diện thuộc linh là mấu chốt, là nền tảng cho cuộc sống
thuộc thể (Ma-thi-ơ 16:26)
- Trách nhiệm đối với Hội Thánh:
c25
·
Trung tín thờ phượng Chúa:
Thờ phượng
Chúa là trách nhiệm đầu tiên, quan trọng đối với người Cơ-đốc. Đời sống tâm
linh của chúng ta có được trưởng thành thì chúng ta mới có thể làm những việc
khác cho Chúa. Sự thờ phượng Chúa là điều kiện để tâm linh mình được trưởng
thành. Thờ phượng Chúa cũng là mạng lịnh thứ ba trong mười điều răn của Đức
Chúa Trời.
·
Gây dựng và phát triễn Hội Thánh:
Đây là trách
nhiệm của mỗi một người Cơ-đốc. Một người con hiếu thảo thì sẽ luôn luôn tìm
mọi cách để xây dựng gia đình mình, giúp đỡ cho cha mẹ; cũng một lẻ ấy một
người dạn dĩ trong đức tin sẽ hết lòng để gây dựng và phát triễn Hội Thánh
Ngài.
Phần
3: Lời cảnh cáo, nhắc
nhở mỗi tín hữu cần phải dạn dĩ trong đức tin:
10: 26-31.
a.
Không được cố ý phạm tội: c26-29
·
Vì đã nhận biết lẽ thật:
Con người bất
toàn, không ai tránh khỏi những yếu đuối, lỗi lầm. Nhưng cố ý phạm tội lại là
một vấn đề khác. Chúa Jesus phán : “Các
ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Giăng8 :32).
Lời Chúa ở I Giăng 3 : 9 chép : Ai
sanh bởi Đức Chúa Trời, thì chẳng phạm tội, vì hột giống của Đức Chúa Trời ở
trong người, và người không thể phạm tội được, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời. Vậy
chắc chắn một người đã thật lòng tin nhận Chúa Jesus, thì Thánh linh Ngài đã ấn
chứng trong người đó, và họ sẽ không bao giờ cố ý phạm tội, và họ sẽ không
buông tuồng, đắm mình trong tội lỗi.
·
Sẽ không có tế lễ chuộc tội:
Thời cựu ước
những người phạm tội thì phải dắt một con sinh vật đến cho thầy tế lễ, và thầy
tế lễ giết con sinh đó lấy huyết dâng lên cho Đức Chúa Trời để làm tế lễ chuộc
tội cho người đó. Trong thời Tân-ước, Chúa Jesus đã phó chính sự sống của Ngài,
lấy huyết để làm sinh tế chuộc tội cho cả nhân loại ; và Ngài đã thực hiện
điều nầy một lần đủ cả. Vậy ngày nay khi một người đã tin nhận Chúa, nếu có
những yếu đuối lỗi lầm nào thì Chúa Thánh linh sẽ cáo trách, nhắc nhở hầu người
đó ăn năn để nhận được sự tha thứ; nhưng nếu người đó không ăn năn mà vẫn
cố ý phạm tội thì rõ ràng không còn có tế lễ để chuộc tội cho người đó được. Vì
người ấy đã giày đạp Con Đức Chúa Trời, coi huyết của giao ước,
tức là huyết mà mình nhờ nên thánh, là ô uế, lại khinh lờn Đức Thánh Linh... Thật vậy, Đức Thánh Linh có vai
trò cáo trách tội lỗi con người, và đem những người có tội đến trong sự ăn năn.
Nhưng khi một người đã kinh lơn Đức Thánh Linh thì rõ ràng họ không thể được
cảm động để đến sự ăn năn với Chúa.
b.
Sự hình phạt: c30-31
·
Sự phán xét thuộc về Chúa:
Đức Chúa Trời
là Đấng Tạo Hóa, Ngài đã tạo dựng vũ trụ và con người. Chúa Jesus là Đức Chúa
Trời đã bèn lòng trở thành con người để đến thế gian nầy. Ngài đã sống một cuộc
đời thánh khiết, Ngài đã chịu chết để đền tội cho con người. Vì thế chỉ có mình Ngài mới có quyền phán xét con
người.
·
Sự hình
phạt kinh khiếp
Tay Đức Chúa Trời... Kinh
Thánh thường dùng những từ ngữ như vậy để nói về sức mạnh đại quyền, đại
năng của Đức Chúa Trời.
Chữ Sa... Muốn
nói rằng : Vì Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, ngài không bao giờ muốn
hình phạt con người, Nhưng Ngài cũng là Đấng công bình, thánh khiết không chấp
nhận tội lỗi. Ngài đã thi hành sự hình phạt đối với Ma-quỉ và quỉ sứ của
nó ; riêng đối với con người thì Ngài đã có chương trình cứu rỗi dành cho
họ qua Chúa Jesus. Tuy nhiên con người khước từ Chúa Jesus thì có nghĩa là tự
chuốc lấy sự hình phạt cho mình, và sự hình phạt đó là kinh khiếp.
Phần 4: Sự khích
lệ để các tín giữ vững sự dạn dĩ trong đức tin : 10: 32-39.
Sự
khich lệ là điều cần thiết vô cùng đối với những người đang ở trong tình trạng
yếu đuối, sa suốt. Dưới đây là những sự khích lệ ấy.
- Nhớ lại những lúc ban đầu: 32-36.
Hãy nhớ lại những lúc ban đầu… Cuộc sống của con người ai cũng có
những ký ức. Có những ký ức rất đau buồn đáng quên; nhưng cũng có những ký ức
rất đẹp, rất êm dịu ngọt ngào mà chúng ta cần phải nhớ. Và ở đây tác giả muốn
những người Cơ-đốc hãy nhớ lại giờ phút phước hạnh nhất của cuộc đời đó là lúc
mới tin nhận Chúa.
·
Sự soi
sáng lúc ban đầu:
Trước khi tin nhận Chúa Jesus, mọi người
điều sống trong bóng tối của tội lỗi. Sự tiếp nhận Chúa Jesus là một sự khai
sáng cho tâm linh của họ.
·
Sự thử
thách lúc ban đầu :
Một người khi tiếp nhận Chúa Jesus thì được làm con của
Ngài và không còn thờ lạy Ma-quỉ nữa, vì thế nên nó cũng sẽ tìm đủ mọi cách để lôi kéo người đó
trở về với nó. Vậy việc một Cơ-đốc phải chịu chịu cơn chiến trận
lớn về những sự đau đớn, phần thì chịu sỉ nhục, gặp gian nan, như làm trò cho
thiên hạ xem, phần thì chịu khổ với với những kẻ bị đối đãi đồng một cách... trong lúc ban đầu là một việc
không có gì lạ..
·
Sự dạn dĩ
trong đức tin lúc ban đầu :
Dù phải gặp nhiều
thử thách, khó khăn như vậy, nhưng bởi tình yêu nóng cháy và niền tin mạnh mẽ
của buổi ban đầu khiến họ cứ đứng vững vàng và vượt qua mọi sự để giữ vững lòng
dạn dĩ trong đức tin. Đây chính là điều tác giả muốn họ nhớ lại.
Một trong những điều tác giả dùng để khích lệ đức tin của
các tín hữu là nhắc họ nhớ điều mà họ đã nhận lảnh khi mới tin nhận Chúa ấy là họ
phải luôn nhớ rằng những điều ở trần gian nầy chỉ là tạm bợ, chóng qua, chỉ có
đức tin nơi Chúa mới quí gía và bền vững lâu dài.
- Sự hy vọng,
trông chờ của người dạn dĩ trong đức tin: 37-39.
·
Chúa
Jesus sẽ trở lại:
Tuyệt đỉnh trong đức tin của những tin hữu Cơ-đốc là
trông đợi ngày Chúa Jesus trở lại, và tác giả đã khẳn định ngày của Chúa sẽ
không còn bao xa nữa, chắc chắn Ngài không chậm trễ.
·
Người
công bình sẽ sống bởi đức tin:
Bởi đức tin nơi ơn cứu rỗi của Chúa mà chúng ta được xưng
công bình. Vậy người công binh phải tiếp tục cậy đức tin để sống mà không có
quyền lùi lại trên bước đường theo Chúa của mình. Về nguyên tắc khi chạy đua
thì chúng ta cũng phải biết rằng : khi một người dừng lại thì cũng đồng
nghĩa với việc lùi đi.
Và, tác giả còn gửi gắm trọn cả tâm tình của mình vào
trong bức thư: Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào.
·
Dạn dĩ
trong đức tin cho đến cuối cùng:
Thật tuyệt vời khi tác giả đi vào phần kết của đoạn thư
bằng những lời bày tỏ lòng yêu thương và sự kỳ vọng của mình nơi những tin hữu.
Ông tin tưởng rằng dù có khó khăn, thử thách, hoạn nạn thế nào đi nữa thì các
tín hữu của ông cũng vẫn giữ vững đức tin để nhận sự cứu rỗi linh hồn.
IX/ Áp Dụng :
1. Ngày
trước chúng ta là những tội nhân đáng bị hình phạt, nhưng nay đã được tha thứ
qua sự chết và đỏ huyết của Chúa Jesus. Bởi đức tin trong ơn cứu rỗi đó mà
chúng ta được xưng công bình và được hòa thuận lại với Đức Chú Trời. Ngài là
Đấng Thành tín ở bên hữu Đức Chúa Trời để binh vực cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy dạn dĩ trong đức tin để
đến gần Với Ngài.
2. Là con
dân của Chúa chúng ta phải có trách nhiệm quan tâm, coi sóc và giúp đỡ cho nhau cả về thuộc thể, lẫn đời
sống thuộc linh. Cũng phải trung tín nhóm thờ phượng Chúa để xây dựng và phát
triễn Hội Thánh của Ngài. Vậy hãy dạn dĩ
trong đức tin mà hầu Việc Ngài.
3. Chúng ta
đã được mua chuộc bởi giá rất cao, vì thế chúng ta phải sống sao cho xứng đáng
với tình yêu của Chúa. Phải nhạy cảm với sự nhắc nhở của Đức Thánh Linh để không
phạm tội mà phải chuốc lấy sự hình phạt kinh khiếp của Đức Chúa Trời. Vậy hãy dạn dĩ trong đức tin để làm vinh hiển danh Ngài.
4. Dầu bước
đường theo Chúa có nhiều thử thách, khó khăn, băt bớ... nhưng chúng ta phải
trung kiên với Chúa, hãy biết rõ cuộc sống trên đất nầy chỉ là tạm bợ mà thôi.
Vì chúng ta có của cải quí hơn hằng còn luôn và phần thưởng lớn mà Chúa để dành
cho chúng ta ở trong nước đời đời. Vậy
hãy dạn dĩ trong đức tin để linh hồn được cứu rỗi. A-men
Dưới đây là một bố cục gợi ý :
HÃY DẠN DĨ TRONG ĐỨC TIN
1.
Hãy dạn
dĩ trong đức tin để đến gần Với Chúa.
2.
Hãy dạn dĩ
trong đức tin mà hầu Việc Chúa.
3. Hãy dạn
dĩ trong đức tin để làm vinh hiển danh Chúa.
4.
Hãy dạn
dĩ trong đức tin để linh hồn được cứu rỗi.
THƯ MỤC :
- Các bản Kinh Thánh : New
American Standard Bible; Bản Truyền
thống; Bản phổ thông; Bản dịch mới năm 200.
- Thánh Kinh Lược Khảo của Henry Halley, xuất bản năm
1960.
- Thánh kinh tự của WM. C. CADMAN, quyển 1và 2, xuất bản năm 1958.
- Tài liệu nghiên cứu thư tin tổng quát của GS Lê Vĩnh
Phước, năm 2012.
- Giải nghĩa thư tin Hê Bơ Rơ của William Barclay do
Văn phẩm Nguồn Sống xuất bản.
- Giải nghĩa Kinh Thánh ấn bản thế kỷ 21 của G.J
Wenham, J.A. Motyer, D.A. Carson, R.T. France. Do nhà xuất bản Tôn Giáo Hà
Nội năm 2004.
Cùng với nhiều tài liệu tham khảo ở các trang web
sau :
- www.bailuanthanhoc.blogspot.com.
- www.nguonsong.com.
- www.vietchristian.com.
- www.songdaoonline.com.
- www.hoithanh.com.